Trăm năm mộng tỉnh (13): Sự nguy hại của lý thuyết cộng sản (1): Phá hủy gốc gác của dân tộc Trung Hoa – Chặt đứt gốc rễ, làm mê muội dân chúng
Tác giả: Kính Tạ Ân
[Chanhkien.org]
VI. Sự nguy hại của lý thuyết cộng sản (1): Phá hủy gốc gác của dân tộc Trung Hoa – Chặt đứt gốc rễ, làm mê muội dân chúng
Từ năm 1921, lý thuyết cộng sản bắt đầu hình thành nên Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Trung Quốc; đến năm 1949, khi Đảng Cộng sản được thành lập dựa trên lý thuyết cộng sản bắt đầu thống trị Trung Quốc, kể từ đó lý thuyết cộng sản đã hoàn toàn thống trị Trung Quốc. Vậy lý thuyết cộng sản đã đem đến điều gì cho dân tộc Trung Hoa và nền văn minh Trung Hoa? Về vấn đề này, không thể gộp lại để nói chung, mà cần phải trình bày có trình tự, bắt đầu từ gốc rễ.
Điều mà lý thuyết cộng sản đem đến cho dân tộc Trung Hoa là sự nguy hại. Mà nguy hại lớn nhất, cũng chính là sự nguy hại hàng đầu trong nhiều sự nguy hại của nó, chính là sự hủy diệt trí huệ và gốc rễ của dân tộc Trung Hoa. Cụ thể bao gồm hai phương diện lớn: Thứ nhất, chặt đứt cội nguồn sức sống to lớn vốn có của dân tộc Trung Hoa; thứ hai, làm mờ đôi mắt trí huệ sâu sắc vốn có của dân tộc này.
(1) Xét từ chính góc độ tín ngưỡng: Cắt đứt cội nguồn sức sống to lớn vốn có của dân tộc Trung Hoa
Dân tộc Trung Hoa có một nền tảng sâu dày, nền tảng đó chính là sự tín ngưỡng sâu sắc vào quy luật thiện ác hữu báo mà dân tộc Trung Hoa trong quá trình lịch sử dài đằng đẵng, dưới sự che chở của ông Trời, Thần, Phật đã hun đúc mà thành. Về vấn đề này, phần trước của bài viết đã trình bày rõ, ở đây chỉ xin tóm lược lại một cách ngắn gọn.
Trước hết, xét từ góc độ trí huệ, niềm tin vào “quy luật thiện ác hữu báo” là một trong những nguồn trí huệ quan trọng của dân tộc Trung Hoa. Thứ hai, xét từ góc độ đạo đức, bởi vì niềm tin này đã ăn sâu bén rễ, nên suốt mấy nghìn năm qua, dân tộc Trung Hoa luôn coi trọng việc phân biệt đúng sai, thiện ác và đề cao việc tu dưỡng đạo đức cá nhân. Cuối cùng, xét từ góc độ lực sống của sinh mệnh, chính nhờ sự che chở của tín ngưỡng này mà trí huệ của dân tộc Trung Hoa trở nên sâu sắc, chú trọng tu dưỡng đạo đức, từ đó mới nhận được sự phù hộ của Thiên thượng, khiến dân tộc Trung Hoa trở thành “lễ nghi chi bang” được cả thế giới ngưỡng mộ, hình thành nên một nền văn minh lịch sử kéo dài liên tục suốt năm ngàn năm, thậm chí còn lâu dài hơn nữa.
Lý thuyết cộng sản lấy vô thần luận làm nguyên tắc cơ bản, cụ thể bao gồm những học thuyết như chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, v.v. Do đó, nó tất nhiên đối lập hoàn toàn với tín ngưỡng vào “thiện ác hữu báo”. Chỉ là, trước khi đoạt được chính quyền, lý thuyết cộng sản chưa bộc lộ hết bộ mặt thật sự là cưỡng chế tiêu diệt các tín ngưỡng khác của nó, thay vào đó, nó áp dụng chiến lược mặt trận thống nhất, cố gắng thể hiện sự đồng thuận với các học giả và nhân sĩ xã hội ở các phương diện, để rồi sau khi giành được chính quyền, lý thuyết cộng sản nhanh chóng bắt đầu tiêu diệt các tư tưởng và tín ngưỡng khác trong xã hội.
Trong lĩnh vực giáo dục đại học, thông qua các phương thức như điều chỉnh hệ thống trường học, v.v. để tiến hành ép buộc các giới trí thức cần phải dùng chủ nghĩa Marx cải tạo tư tưởng, nếu không thì sẽ bị tước mất kế sinh nhai. Trong dân chúng, bằng các thủ đoạn như tuyên truyền và đấu tố, đã khiến cho hết thảy mọi thứ tín ngưỡng vào “thiện ác hữu báo”, hết thảy mọi thứ tín ngưỡng vào Thần đều bị chế giễu là mê tín. Từ khi đảng cộng sản TQ nắm được chính quyền và chịu sự công kích mạnh mẽ của lý thuyết cộng sản, những tín ngưỡng đã tồn tại hàng ngàn năm của dân tộc Trung Hoa — chẳng hạn như “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”, “nhà tích thiện ắt có dư phúc, nhà tích ác ắt có tai ương” — đều bị xem là mê tín, bị chế nhạo là ngu muội.
Do lý thuyết cộng sản triệt để tiêu diệt, chế giễu, phê phán và mạt sát tín ngưỡng đối với quy luật “thiện ác hữu báo”, cuối cùng đã buộc người dân Trung Hoa dần dần rời xa tín ngưỡng truyền thống, trở nên không còn nhạy cảm với thiện – ác, đúng – sai, ngày càng trở nên tê liệt và mù mờ. Trí huệ của dân tộc Trung Hoa đã chịu tổn hại và hạn chế nghiêm trọng. Đồng thời, mức độ đạo đức của xã hội, bao gồm cả đạo đức chốn quan trường, cũng bị tha hóa nghiêm trọng. Điều này chẳng khác nào chặt đứt cội nguồn sức sống to lớn của dân tộc Trung Hoa.
(2) Từ góc độ trí huệ hiện hữu: che khuất tầm nhìn trí huệ vốn có của dân tộc Trung Hoa
Dân tộc Trung Hoa trong suốt hàng nghìn năm đã tích lũy và hình thành nên nhiều tác phẩm kinh điển mang ý nghĩa khai sáng vô cùng sâu sắc như Kinh Dịch, Đạo Đức Kinh, Luận Ngữ, Thượng Thư, Hoàng Đế Nội Kinh, cùng rất nhiều các quyển kinh Phật, v.v. Những tác phẩm kinh điển từ thời thượng cổ, của các bậc thánh hiền này, có mối liên hệ trực tiếp với tín ngưỡng “thiện ác hữu báo” mà dân tộc Trung Hoa vẫn luôn kiên tín từ xưa đến nay. Một mặt, chính những kinh điển ấy đã khai thị cho dân tộc Trung Hoa về tín ngưỡng “thiện ác hữu báo”; mặt khác, nội dung của những tác phẩm kinh điển này cũng chính là kết tinh của tín ngưỡng “thiện ác hữu báo”, là sự thể hiện tinh túy và thâm sâu nhất về chân tướng lịch sử và vũ trụ của tín ngưỡng “thiện ác hữu báo”. Do đó, những tác phẩm kinh điển đã được ghi lại thành văn tự ấy từ lâu đã trở thành thước đo cơ bản để người Trung Quốc soi xét mọi sự việc, là tầm nhìn trí tuệ vốn có của dân tộc Trung Hoa.
Quan điểm cơ bản của lý thuyết cộng sản là: “Chủ nghĩa Marx mới là nguồn gốc của chân lý”, tất cả những gì không nằm trong phạm vi của chủ nghĩa Marx, bao gồm cả các tác phẩm kinh điển truyền thống của dân tộc Trung Hoa đều bị coi là mê tín. Thật ra, đó là một sự phỉ báng. Bởi vì lý thuyết cộng sản đang nắm giữ chính quyền, nên thái độ phỉ báng của nó cũng lan rộng ra toàn xã hội. Phần lớn mọi người đều làm theo nó, coi những kinh điển này như đối tượng để chế nhạo và khinh miệt. Đi cùng với sự lan rộng của thái độ ấy, đại đa số người dân về cơ bản không còn muốn tiếp thu trí tuệ từ các kinh sách truyền thống nữa.
Mặc dù Đảng Cộng sản đã ra sức hạ thấp giá trị của văn hóa truyền thống, vậy nhưng vẫn có nhiều người mong muốn đúc rút trí tuệ từ đó. Để nhắm vào những người này, lý thuyết cộng sản lại áp dụng các phương thức như che đậy và xuyên tạc lịch sử, nhằm phá hủy cốt lõi chân chính của văn hóa truyền thống.
Trong lịch sử, niềm tin vào Thần của dân tộc Trung Hoa là có lý trí. Dân tộc Trung Hoa sở dĩ luôn kính ngưỡng Thần linh, kiên định tin vào chân lý “thiện ác hữu báo”, là bởi vì thực sự tồn tại nhiều kỳ tích và kiểm chứng cho điều đó. Lý thuyết cộng sản đã viết lại lịch sử, xóa bỏ toàn bộ những kỳ tích và kiểm chứng ấy, đồng thời phê phán tất cả các bài viết và học giả công nhận sự tồn tại của kỳ tích và kiểm chứng đó. Vì lý thuyết cộng sản trong giáo dục và tuyên truyền của mình về cơ bản đã xóa sạch những sự kiện lịch sử này, nên những người lớn lên trong nền giáo dục đó sẽ vô thức cho rằng niềm tin vào Thần của người xưa là không lý trí.
Lý thuyết cộng sản còn lợi dụng thêm một điểm khác. Bởi vì trong lịch sử nhân loại, thật và giả luôn song song tồn tại, vì vậy, một mặt có những người thật sự có tín ngưỡng, đó là những người tu luyện, cao tăng đại đức, bậc cao nhân có đạo hạnh; nhưng thực sự cũng có một số kẻ lừa đảo hoạt động trong dân gian, thậm chí có kẻ còn đến tận hoàng cung hay phủ quan, lấy danh nghĩa tu đạo, cầu Thần để lừa gạt nhiều tiền bạc hơn. Vì vậy lý thuyết cộng sản một mặt che đậy các Thần tích chân thực và những nghiệm chứng xác thực, mặt khác lấy hành vi của những kẻ lừa đảo đó ra tuyên truyền lặp đi lặp lại, từ đó khiến người đương thời càng không thể hiểu được bản chất thật sự của văn hóa truyền thống và trí huệ sâu xa ẩn chứa trong đó.
Điều này đã dẫn đến việc những kinh điển đã hình thành trong truyền thống dân tộc Trung Hoa, cùng với rất nhiều tiêu chuẩn căn bản chứa đựng trong các tác phẩm kinh điển này, vốn trong lịch sử được dân tộc Trung Hoa dùng làm thước đo phân biệt đúng sai, cũng như trí tuệ sâu sắc mà các kinh điển ấy dựa vào và đại diện cho, đều bị phế bỏ. Hậu quả là rất nhiều chuẩn mực và trí tuệ đã bị từ bỏ, tổn thất mà nó gây ra cho dân tộc Trung Hoa là vô cùng to lớn. Tại đây, chúng tôi xin nêu ra một vài ví dụ.
Ví dụ như tiêu chuẩn “Ngũ thường” gồm “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Tiêu chuẩn “Ngũ thường” trong truyền thống dân tộc Trung Hoa, về bản chất là tiêu chuẩn đạo đức hướng thiện, kính Trời, được thể hiện rõ ràng trong hơn hai nghìn năm lịch sử gần đây. Từ khi tiêu chuẩn “Ngũ thường” bị vứt bỏ, người Trung Quốc không còn hiểu thế nào là “thường”, và để mặc cho tiêu chuẩn “cách mạng” của “đấu tranh giai cấp” hay tiêu chuẩn “tài phú” của “tiền là tất cả” dẫn dắt.
Một ví dụ khác, như tư tưởng lấy dân làm gốc: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là trọng hơn cả, xã tắc đứng đằng sau, vua còn nhẹ hơn). Tư tưởng lấy dân làm gốc này là sự thể hiện của tư tưởng “trọng đức” và quan niệm về “thiên mệnh” trong phương diện về thái độ trị quốc, tạo thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng về nhà nước và quyền lực chính trị của Trung Quốc cổ đại. Do đánh mất bộ phận tư tưởng này, đã dẫn đến việc rất nhiều người Trung Quốc khi đối mặt với bạo chính của Đảng Cộng sản chỉ chọn cách ‘ai thích nghi thì tồn tại’, thậm chí không còn dũng khí để phán xét đúng sai.
Lại ví dụ nữa, như tư tưởng tế tự “lấy đức làm gốc”, “quỷ thần hưởng đức”. Tư tưởng này giữ vị trí cực kỳ cao trong việc truyền thừa tông tộc của người Trung Hoa, cấu thành bản chất của văn hóa cúng tế tổ tiên của Trung Hoa. Do đánh mất loại tư tưởng này, dẫn đến việc người Trung Quốc đã không còn khả năng nhận thức sự thật về việc bạo chính cộng sản giết người hại mệnh, cũng không thể cảm thấy ghê tởm khi Đảng Cộng sản dẫn dắt người dân phỉ báng tổ tiên Trung Hoa trong khi lại tôn thờ tổ tông Marx-Lenin – những kẻ đã giết người hại mệnh. Ngoài ra, điều này cũng dẫn đến tình trạng: mặc dù trong khoảng 30 năm gần đây có không ít người ở mức độ nào đó đã khôi phục lại việc tế lễ tổ tiên và dòng tộc, nhưng trong quá trình tế lễ và tưởng niệm, họ lại không biết mình thực sự đang làm gì, rốt cuộc bản thân nên làm gì.
Ngoài ra còn có trí tuệ dân tộc: “Thiên nhân hợp nhất”, “thiên tai là lời cảnh tỉnh”, “khi đối mặt với động đất, dịch bệnh và các loại thiên tai thì phải từ trên xuống dưới (từ quan đến dân) cùng nhau phản tỉnh, sám hối”. Đây là một nhận thức có trí tuệ cao của văn hóa Trung Hoa, được hình thành dưới sự khai thị của chư Thần Phật và nền tảng quan niệm “thiên mệnh”, “trách nhiệm của Thiên tử”, và “trách nhiệm trị quốc”, hơn nữa từ thời thượng cổ đến cuối triều Thanh đều có rất nhiều thực tiễn và minh chứng cho điều này. Do trí tuệ này đã bị vứt bỏ, khi các loại thiên tai như ôn dịch, động đất, hạn hán, lũ lụt xảy ra, con người đã không nhận ra rằng đây là sự trừng phạt từ thiên thượng đối với bạo chính cộng sản, là lời cảnh báo từ thiên thượng đối với những người nắm quyền, mà ngược lại, tất cả người dân phó mặc cho bộ máy cộng sản chỉ huy, biến những tai họa đó trở thành lời ca ngợi “dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân vượt qua hoạn nạn”, từ đó khiến cho nhân dân ngay cả khi đối mặt với lời cảnh tỉnh từ thiên tai cũng không thể tỉnh ngộ.
https://drive.google.com/file/d/1qwlcG9fLecVBdGoINeg30YwE4PWrwR-1/view?usp=sharing
(3) Phối hợp sử dụng nhiều phương thức khác nhau nhằm phá hủy triệt để văn hóa truyền thống Trung Hoa
Văn hóa truyền thống Trung Hoa có phương tiện truyền tải chính là chữ Hán và thể văn văn ngôn (văn cổ). Chữ Hán và văn văn ngôn đặt trọng tâm vào việc truyền tải tín ngưỡng truyền thống Trung Hoa và nội hàm văn hóa thần truyền. Trong đó, chữ Hán vượt qua sự khác biệt về khẩu âm của tiếng địa phương ở các nơi, trải dài hàng ngàn dặm từ đông sang tây, từ nam chí bắc; còn văn văn ngôn lối viết văn được coi là tham chiếu mẫu mực của thời Xuân Thu, vượt qua những biến thiên trong ngôn ngữ nói của các thời đại suốt mấy nghìn năm lịch sử từ xưa đến nay; nhờ vậy mà nội hàm ban đầu của văn hóa Trung Hoa được truyền lại tương đối nguyên vẹn cho hậu thế. Đây là hình thức biểu đạt nguyên sơ và cơ bản nhất của văn hóa truyền thống Trung Hoa. Để hủy hoại nền văn hóa truyền thống Trung Hoa, chủ nghĩa cộng sản đã áp dụng chiến lược giản thể hóa chữ Hán và cổ vũ văn bạch thoại. Hậu quả là người hiện đại không thể đọc hiểu văn cổ, không thể dễ dàng đọc hiểu chữ Hán và văn văn ngôn vốn có của Trung Hoa; thay vào đó, họ chỉ có thể tiếp xúc với cái gọi là “cổ văn” đã được Đảng Cộng sản cho phép xuất bản, vốn đã bị chỉnh sửa, cắt gọt nội dung và dịch sang bạch thoại, để lý giải văn hóa truyền thống. Điều này tạo ra rào cản, thậm chí là đứt đoạn giữa người Trung Quốc hiện đại và hình thức biểu đạt nguyên thủy của văn hóa truyền thống.
Văn hóa Trung Hoa đã trải qua lịch sử năm nghìn năm, thậm chí hàng chục nghìn năm không gián đoạn; đã để lại cho hậu thế những di tích lịch sử, kiến trúc, bia đá, tượng điêu khắc, địa danh, cho đến các loại dụng cụ, hình dáng đồ vật, v.v. đều mang tính nhất quán về lịch sử của nội hàm văn hóa trong chúng, đã để lại cho các thế hệ tương lai sự khai sáng về mặt tâm linh và kế thừa nội hàm của văn hóa truyền thống. Hơn nữa, cùng với sự trầm tích của các tầng địa chất, đã chôn dấu vào lòng đất dấu ấn từng triều đại. Đảng Cộng sản được hình thành bởi lý thuyết cộng sản đã nhiều lần dùng quyền lực của nó phá hủy các văn vật Trung Hoa. Trong đó, cuộc hủy diệt quy mô lớn nhất là phong trào “Phá Tứ Cựu” trong thời kỳ “Cách mạng Văn hóa”. Ngoài ra, nó còn liên tục bị phá hoại thông qua các phương thức như giáo dục thuyết vô thần, các cuộc đấu tranh chống phong kiến của Đảng Cộng sản ở cấp cơ sở,… Kết quả là người Trung Quốc bị cách ly khỏi các văn vật truyền tải văn hóa truyền thống. Những gì họ nhìn thấy, nghe thấy chỉ toàn là những nội dung của lý thuyết cộng sản, là những vật phẩm, cơ sở vật chất, bài hát, khẩu hiệu do Đảng Cộng sản tạo dựng nên. Ngoài những thứ đó ra, về cơ bản không còn gì khác.
Sau cải cách mở cửa, cùng với xu hướng tìm về cội nguồn dân tộc của người dân Trung Quốc, Đảng Cộng sản cũng nắm bắt cơ hội, vì để phát triển du lịch kiếm tiền mà không ngần ngại xây dựng các điểm du lịch truyền thống, các công trình văn vật. Nhưng đây chỉ là sự khôi phục mang tính hình thức, không đi cùng với việc khôi phục tinh thần thực sự của nền văn hóa truyền thống dân tộc Trung Hoa. Điều mà người ta thường cảm nhận được chỉ là mùi kim tiền nồng nặc và sự chạy đua vật chất. Đi đôi với sự khôi phục lại ở bề mặt, nhưng lại đồng thời cắt đứt sự sợi dây liên kết giữa người Trung Quốc với tinh thần chân chính của văn hóa truyền thống.
(còn tiếp)