Một quyển sách
đã truyền cảm hứng cho hơn 350 triệu người
thoái xuất khỏi Đảng Cộng Sản Trung Quốc

Trăm năm mộng tỉnh (6): Hưởng phúc trời, văn hóa Trung Hoa hàm chứa những nhân tố đặt nền móng vững chắc cho mai sau

—Cội rễ của dân tộc Trung Hoa và sự nguy hại của lý luận cộng sản—

Tác giả: Kính Tạ Ân

[ChanhKien.org]

III. Hưởng phúc trời, văn hóa Trung Hoa hàm chứa những nhân tố đặt nền móng vững chắc cho mai sau

Như chúng tôi đã đề cập trong phần trước, thực chất cội rễ của dân tộc Trung Hoa là việc dân tộc Trung Hoa liên tục chủ động đồng hóa với quy luật thiện ác hữu báo vốn đã tồn tại từ trước trong vũ trụ, cho nên đạt được kết quả tốt đẹp trong rất nhiều phương diện.

Trong rất nhiều những kết quả tốt đẹp mà dân tộc Trung Quốc đã đạt được, có một phương diện cực kỳ quan trọng, đó chính là dân tộc Trung Hoa dưới sự ban phúc sâu dày, dẫn dắt và truyền thụ của thiên thượng, bản thân kết cấu văn hóa của họ đã bao hàm nhiều sự an bài kỳ diệu, có thể khiến cội rễ của bản thân cắm sâu hơn và chắc chắn hơn. Ở phương diện này có rất nhiều biểu hiện, tại đây xin tóm tắt đơn giản như sau.

https://www.zhengjian.org/sites/default/files/images/2024/06/20240615-zj-jz3.jpg

(1) Tự cổ chí kim, luôn lấy việc “trọng đức” làm truyền thống văn hóa căn bản

Trong lịch sử, những văn minh vật chất và văn minh tinh thần mà dân tộc Trung Hoa sáng tạo ra là vô cùng phong phú, nó bao quát tất cả các loại kiến trúc, đồ dùng, đồ ăn thức uống, trang phục, lễ nghi, thơ ca, vũ khí, v.v., khiến người ta phải trầm trồ thán phục. Nhưng đặc trưng điển hình nhất, căn bản nhất cấu thành nên nền văn minh Trung Hoa, đó là sự chú trọng vào việc nâng cao đạo đức, cũng chính là việc “trọng Đức”. Đây là đặc trưng tinh thần căn bản nhất của nền văn minh Trung Hoa.

“Trọng Đức” là đặc trưng tinh thần căn bản nhất, điển hình nhất của văn minh Trung Hoa, trong nền văn minh vật chất Trung Hoa cũng có biểu hiện khá nổi bật. Lấy ví dụ về trang phục, tên gọi của kiểu dáng, kết cấu, bộ phận của trang phục vua quan, sĩ phu, cung nữ của các triều đại khác nhau ở Trung Quốc cổ đại đều thể hiện sự kính trọng trời đất, coi trọng việc tu đức. Cho nên lúc con người mặc áo đội mũ thì cũng đều là một lần nhận được sự nhắc nhở về lý niệm “trọng Đức”. Kiến trúc, vật dụng, ẩm thực, v.v. đều như vậy, thông thường đều mang theo công năng nhắc nhở việc phải “trọng Đức”.

https://www.zhengjian.org/sites/default/files/images/2024/06/20240615-zj-jz4.jpg

Từ thời thượng cổ Trung Hoa, đến thời Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn, trải qua các triều các đại, đều lấy việc “trọng Đức” làm văn hóa truyền thống căn bản nhất. Từ cấu thành của văn hóa Trung Hoa mà nói, Phật, Đạo, Nho ba nhà chiếu rọi lẫn nhau, tạo nên chủ thể của văn minh Trung Hoa. Trong đó, nội dung cốt lõi của Nho gia có thể khái quát bằng câu “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ vu chí thiện” (nghĩa là Đạo của Đại học là hiểu rõ cái Đức, yêu thương con người, là ở chỗ đạt đến chí thiện), thể hiện ở chỗ “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, quản lý quốc gia quan trọng ở chỗ “Tự thiên tử dĩ chí vu thứ dân, nhất thị gia tu thân vi bổn” (nghĩa là từ vua cho tới dân thường, tất cả đều lấy việc tu thân làm gốc). Tu thân nói đến ở đây, thực chất cũng là tu đức. Mà bản thân Đạo gia, Phật gia chính là tu luyện, chính là dạy cho con người tu Chân, trọng Đức, tu Thiện.

Dân tộc Trung Hoa xác định “trọng Đức” là văn hóa truyền thống, đây là sự lĩnh hội sâu sắc nhất, vận dụng thông minh và trí tuệ nhất đối với tín ngưỡng thiện ác hữu báo, cũng là biểu hiện việc dân tộc Trung Hoa đang chủ động làm sâu dày thêm cội rễ của chính mình.

(2) Áp dụng hệ thống bồi dưỡng đạo đức phong phú, cao thâm, thiết thực và hiệu quả

“Trọng Đức” của dân tộc Trung Hoa không phải là nói suông, mà được lưu truyền về sau cùng với một hệ thống bồi dưỡng đạo đức. Trong hệ thống bồi dưỡng đạo đức của truyền thống dân tộc Trung Hoa sử dụng hệ thống tiêu chuẩn đạo đức ngũ đức: “Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín”; cũng có những lối diễn đạt như “Trung hiếu tiết nghĩa” v.v., về bản chất cũng đều là ngũ đức.

Trong quá trình bồi dưỡng, người ta cho rằng “Nhân vi ngũ đức chi bổn” (tạm dịch: Nhân nghĩa là gốc của ngũ đức), đồng thời cho rằng “Hiếu dã giả kì vi nhân chi bổn dữ” (tạm dịch: hiếu là căn bản của Nhân nghĩa), cho nên trong giáo dục thực tiễn, sẽ đặt giáo dục tại gia đình lên hàng đầu, đặt giáo dục trong xã hội lên hàng đầu, đặt hiếu lên hàng đầu. Điểm này là phù hợp nhất với nhân tính, cũng dễ dàng đạt hiệu quả nhất, đồng thời cũng mang theo lực lượng chấn động tâm linh sâu sắc nhất.

Trên cơ sở nền giáo dục gia đình và xã hội phổ biến coi trọng chữ “Hiếu”, vì vậy mà văn hóa Trung Hoa cũng chú trọng bồi dưỡng toàn diện các loại phẩm chất như nhân đức, trung thành, lễ kính, tín nghĩa, trí tuệ, thanh bạch, dũng cảm, có trách nhiệm, đảm đương, nghị lực v.v. Quốc gia tìm trung thần trong những người con có hiếu, vì vậy mỗi cá nhân cũng như toàn bộ xã hội đều được vun bồi mà trưởng thành trong hệ thống “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” như thế.

Phối hợp với hệ thống giáo dục này, trong dân gian cũng hình thành nên hình thức xã hội đã lấy dòng tộc làm nơi ủy thác việc coi trọng giáo dục, lấy sự giáo dục trong dòng tộc và gia đình làm đơn vị, lấy sự dạy dỗ ở làng xã làm cơ sở, lấy sự gương mẫu của người trưởng làng và sĩ phu làm bối cảnh cho hệ thống giáo hóa đạo đức trong nhân dân. Mà trên phương diện quốc gia, từ thời kỳ của Hiên Viên Hoàng Đế hay thậm chí còn sớm hơn, đã hình thành việc “trọng Đức” làm căn bản, lấy việc truyền thừa các tác phẩm kinh điển làm hạt nhân trong hệ thống giáo dục quan lại.

Hệ thống bồi dưỡng của dân tộc Trung Hoa là đa phương diện, hoàn chỉnh, hơn nữa còn mang tính sâu sắc, tính thực dụng, tính hữu hiệu rất cao. Đó cũng là biểu hiện chủ động làm sâu dày hơn cội rễ bản thân của dân tộc Trung Hoa.

(3) Dùng hệ thống chức quan, vi chính, phù chính làm hạt nhân để thăng hoa đạo đức, hỗ trợ quá trình sửa đổi hướng về Thiện

Các cơ quan của quốc gia và hệ thống quan lại thời Trung Quốc cổ đại lấy “Chu lễ” của Chu Công làm cơ sở, mà “Chu lễ” lại có nguồn gốc rất lâu đời, có thể là từ thời Hoàng Đế hoặc trước thời đó nữa.

Sau khi các cơ quan của quốc gia và hệ thống quan lại của thời nhà Chu được viết thành sách “Chu Lễ”, các triều đại sau này đều lấy đó làm tham chiếu, về tổng thể cách bố trí đều không có thay đổi về thực chất, vẫn luôn được áp dụng cho tới thời Thanh mạt.

Thể hệ vi chính: thuận ứng thiên ý, giáo hóa dân chúng, làm gương cho vạn dân

Đầu tiên, thể hệ vi chính Trung Hoa truyền thống có khác biệt rất lớn với chức năng quốc gia dựa trên nền tảng và hạt nhân là đấu tranh giai cấp mà chủ nghĩa cộng sản đương đại tuyên truyền. Thứ hai, so với chức năng quốc gia của hệ thống dân chủ hiện đại cũng tồn tại sự khác biệt lớn. Bởi vì, hệ thống chính trị của văn hóa truyền thống Trung Hoa có đặc trưng là thuận ứng thiên ý, giáo hóa nhân dân, đủ để làm gương cho vạn dân. Như vậy, nó sẽ thể hiện ra ở rất nhiều phương diện.

Ví như vị trí thiên tử. Lãnh đạo tối cao của quốc gia là thiên tử, hàm nghĩa ở đây là con của trời. Thiên tử là mang theo thiên mệnh, cho nên được hưởng địa vị to lớn, bởi vậy phải chú trọng đức hạnh. Nếu thiên tử làm loạn, mất đức, gây ra tình huống nghiêm trọng, thì có khả năng mất đi thiên mệnh, từ đó mất đi địa vị to lớn. Đây là nhận thức cơ bản của toàn bộ xã hội trong truyền thống Trung Hoa, là một khái niệm chung được lưu truyền từ xưa đến nay. Tiếp nữa, là vị trí Vương hậu, Vương hậu là vợ của thiên tử, có được sự tôn quý sánh ngang thiên tử, sau khi được thụ phong mới có thể đảm nhiệm vị trí “Hậu”. Thân phận và chức trách của Hậu là “Mẫu nghi thiên hạ”, là tấm gương dạy bảo cho nữ giới trong thiên hạ. Nếu như làm loạn, đức hạnh không đủ để làm “mẫu nghi thiên hạ”, cũng sẽ bị phế truất. Cách sắp đặt này của truyền thống Trung Hoa so với các quốc gia văn minh khác cùng thời kỳ trên thế giới cơ bản là tương đồng, nhưng có thêm chức trách làm tấm gương đạo đức “Mẫu nghi thiên hạ”, đây là đặc điểm chỉ mình văn hóa Trung Hoa có, hoặc được nhấn mạnh một cách đặc biệt.

Còn việc tuyển chọn và sát hạch quan lại của quốc gia, coi trọng trước hết hoàn toàn không phải là tài năng, mà là phẩm đức, đức hạnh, phải là người tài đức vẹn toàn, lấy đức làm đầu. Nếu như khi nhậm chức phát hiện đức hạnh không đủ làm tấm gương cho nhân dân, ví như xuất hiện tình trạng bất hiếu với cha mẹ, cho dù là người có năng lực, thì cũng bị cách chức, thậm chí là bị xử tội.

Thể hệ quan lại với trung tâm và gốc rễ là việc giáo hóa nhân dân và thăng hoa đạo đức

Trong văn hóa truyền thống Trung Hoa, nhận thức về chức năng của quốc gia cũng khác với lý luận về quốc gia thời hiện đại. Trong văn hóa truyền thống, gốc rễ của chức năng và tác dụng của quốc gia nằm ở việc hỗ trợ thượng thiên, vận dụng quyền lực mà thiên thượng trao cho để thực hiện việc giáo hóa. Cho nên, giáo hóa dân chúng trở thành việc chủ yếu nhất của quốc gia, cũng là nguồn gốc cho tính hợp pháp của quốc gia.

Hệ thống quan chức cổ đại của Trung Quốc có ba chức năng chủ chốt được phản ánh tại những phương diện sau: thứ nhất là hỗ trợ nhân dân giải quyết các khó khăn trong sinh hoạt và xây dựng kinh tế; hai là thúc đẩy giáo hóa nhân dân trong nước, khiến họ đồng hóa với lễ chế; thứ ba là đảm nhiệm việc bảo vệ quân sự. Trong ba phương diện đã nói ở trên, thì việc giáo hóa nhân dân giúp cho họ đồng hóa với lễ chế, nếu ở phương diện này làm được tương đối tốt, thì có thể đạt được sự ủng hộ và tín nhiệm của nhân dân, cho nên đây là phương diện trung tâm và căn bản.

Vì thế trong hệ thống quan chức quốc gia có một chức vụ chuyên môn phụ trách việc giáo hóa, vào thời thượng cổ gọi là “Tư đồ”, các triều đại về sau sẽ gọi bằng những tên khác nhau. Tư đồ thời thượng cổ phụ trách thi hành việc giáo hóa nhân dân về những điều như phụ nghĩa, mẫu từ, huynh hữu, đệ cung, tử hiếu (cha nghĩa, mẹ hiền, anh thân thiết, em cung kính, con có hiếu) v.v. Tuy rằng thuận theo thời đại nội dung giáo hóa của đời sau cũng có thay đổi, nhưng đều xoay quanh những giá trị như lễ, hiếu, đức,… Ngoài Tư đồ trực tiếp phụ trách việc giáo hóa, còn phải sắp sắp các quan viên khác phụ trách các công tác liên quan đến việc giáo hóa, ví như quan chức phụ trách việc cúng bái trời đất sông núi, quan chức phụ trách việc cúng bái tổ tiên, quan chức phụ trách phân biệt quan hệ thân thuộc gần hay xa để sắp xếp trật tự, quan chức phụ trách tiệc hội tiếp khách, quan chức phụ trách việc khảo sát nhân phẩm hiếu hiền, quan chức phụ trách khảo sát phong tục dân chúng để báo về cho quốc gia, v.v.

Thể hệ phù chính: lấy tín ngưỡng thiện ác hữu báo làm cơ sở, phù trợ quân chủ sửa lỗi thành thiện, ngưng tụ trí tuệ

Thể hệ phù chính, đầu tiên là chỉ thể hệ phù trợ thiên tử, hoàng đế, quốc vương hoàn thành chính sự, là một loại thể hệ mang tính hỗ trợ. Nhận thức về tác dụng chức năng của quốc gia trong văn hóa truyền thống Trung Hoa, có sự khác biệt rất lớn so với nhận thức của chủ nghĩa cộng sản và lý luận chính trị dân chủ đương đại. Bởi vì văn hóa truyền thống Trung Hoa cho rằng tác dụng, chức năng của thiên tử là trợ giúp trời đất, hoàn thành việc giáo hóa, làm tấm gương cho thiên hạ, vậy nên thể hệ phù chính tương ứng cũng là xoay quanh hạt nhân này. Bởi vậy, trong văn hóa truyền thống Trung Hoa có rất nhiều an bài đặc thù, ví như: coi trọng kiến thức, đạo đức của người thầy giáo. Cần phải thiết lập các vị trí như thái sư, thái phó, thái bảo bên cạnh thiên tử, quân vương, thái tử.

Lấy một ví dụ khác: coi trọng sử quan. Ít nhất là vào thời kỳ Hiên Viên Hoàng Đế dân tộc Trung Hoa đã xuất hiện chức vụ Sử quan (chức quan ghi chép lịch sử). Quy định thông thường của chế độ sử quan là bố trí hai vị sử quan bên tả và bên hữu, đồng thời từng người đều phụ trách việc ghi chép lại lời nói và hành động của thiên tử, quân vương, từ đó hỗ trợ và giám sát thiên tử, quân vương. Sử quan còn phụ trách quan sát thiên tượng, quản lý thư viện quốc gia, các tư liệu văn hiến và phụ trách cả việc bói toán. Sở dĩ Sử quan được giao phó nhiều chức trách như thế là để Sử quan có thể dùng đạo lý của trời và người cũng như sự thật lịch sử để hỗ trợ cho thiên tử và quân vương.

Còn có coi trọng chức năng khuyên nhủ bề tôi, đi sâu vào định nghĩa của chữ “Trung (忠)”. Chức trách của tất cả bề tôi tuyệt không phải chỉ là chấp hành đơn thuần, mà còn là đề xuất khuyến nghị trước những quyết định sai lầm của người chủ bề trên. Nếu quyết định của bề trên sai lầm, mà bề tôi không đề xuất khuyên ngăn, thì là thuộc loại bất Trung.

Thể hệ phù chính này của Trung Hoa truyền thống – cũng chính là việc bố trí quan lại để phục vụ thiên tử, hoàng đế, quân chủ như thế nào, tuyệt không phải là xoay quanh ý chí quyền lực của thiên tử và quân vương, mà là xoay quanh quy luật “Thiện ác hữu báo”. Nói cụ thể hơn, thể hệ phù chính của Trung Quốc tuyệt không phải dựa vào việc hâm mộ “Tự do ý chí, tự do biểu đạt tự nhiên” trong nhân tính con người, từ đó xem xét làm thế nào để bảo vệ việc thiên tử, quân vương có thể thoải mái thi triển ý chí tự do của bản thân mình, rồi phát triển thành một bộ giá trị quan và hệ thống công tác “Chỉ có quân chủ là lớn nhất”, “Chỉ nghe lệnh quân chủ”, “Chỉ có quân chủ là tối cao”. Mặc dù trong lịch sử văn hóa truyền thống Trung Hoa, thể loại này cũng đã từng xuất hiện, ví như trong thời kỳ Chiến Quốc có lý luận của nhân vật nào đó theo trường phái Pháp gia, các triều đại sau này có ngôn luận thái độ của nịnh thần nào đó. Nhưng kiểu lý luận và ngôn luận đó tuyệt không dung nạp vào trong thể hệ phù chính của văn hóa truyền thống Trung Hoa, thậm chí là trong chỉnh thể thể hệ phù chính, một thời gian dài những lý luận và ngôn luận đó luôn bị xem là quan điểm ngôn luận thấp kém, trong lịch sử bị coi là một tấm gương giáo huấn mang tính tiêu cực phụ diện.

Nói chung, hệ thống phụ trợ chính trị trong văn hóa truyền thống Trung Hoa là dựa vào tín ngưỡng “Quy luật thiện ác hữu báo của vũ trụ”, chủ yếu là xem xét nên làm thế nào để bồi đắp những phương diện phẩm đức và trí tuệ chưa đầy đủ của thiên tử, hoàng đế, từ đó khiến thiên tử, hoàng đế cho đến quốc gia, nhân dân đều có một tương lai tốt đẹp hơn.

Những phương diện kể trên, đều là biểu hiện cho việc dân tộc Trung Hoa, văn hóa Trung Hoa đang chủ động làm sâu dày thêm cội rễ của tự thân, những phương diện này triển hiện trong lĩnh vực chính sự quốc gia chính là lý luận về chức năng quốc gia, cách sắp xếp hệ thống lãnh đạo quốc gia, cách sắp xếp các chức quan.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/291047

Ngày đăng: 5-01-2025