Một quyển sách
đã truyền cảm hứng cho hơn 350 triệu người
thoái xuất khỏi Đảng Cộng Sản Trung Quốc

Trăm năm mộng tỉnh (11): Sự nguy hại của lý thuyết cộng sản (Phần 2)

– Cội rễ của dân tộc Trung Hoa và sự nguy hại của lý thuyết cộng sản –

Tác giả: Kính Tạ Ân

[Chanhkien.org]

Phần giữa: Sự nguy hại của lý thuyết cộng sản

V. Nguồn gốc, bản chất và hình thức biểu hiện của lý thuyết cộng sản

1) Cách phân biệt nội dung chính và điểm căn bản của lý thuyết cộng sản

Về cơ bản, lý thuyết cộng sản ở Trung Quốc trải qua bốn giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất là từ năm 1919 đến năm 1949; giai đoạn thứ hai là từ năm 1949 đến năm 1979; giai đoạn thứ ba là từ năm 1979 đến năm 2012; giai đoạn thứ tư là từ năm 2012 cho đến nay.

Trong giai đoạn đầu, khi lý thuyết cộng sản tiến nhập vào Trung Quốc, nó đã tổ chức thành lập Đảng Cộng sản, sau đó lấy việc cướp đoạt chính quyền làm nòng cốt, từng bước chỉnh đốn, làm phong phú thể hệ lý luận của bản thân, từ đó dẫn dắt Đảng Cộng sản thành lập quân đội, chiếm đoạt đất đai, cướp chính quyền, thống trị Trung Quốc.

Trong giai đoạn thứ hai, lý thuyết cộng sản lấy việc nắm giữ chính quyền làm nền tảng, lấy việc củng cố sự thống trị của nó làm nòng cốt, tiếp tục chỉnh đốn, bổ sung cho hệ thống lý thuyết của bản thân, từ đó dẫn dắt Đảng Cộng sản làm thế nào để phát động quần chúng, bước trên con đường cách mạng chủ nghĩa cộng sản với nội dung cốt lõi là đấu tranh giai cấp.

Trong giai đoạn ba, lý thuyết cộng sản lấy việc duy trì sự thống trị làm nòng cốt (bảo đảm sự thống trị của Đảng Cộng sản không bị lật đổ), liên lục điều chỉnh, bổ sung thể hệ lý luận của bản thân, từ đó chỉ đạo Đảng Cộng sản phát triển kinh tế trên cơ sở đặt việc bảo vệ sự thống trị của chính quyền của nó lên hàng đầu, từ đó hưởng thụ thành quả phát triển kinh tế.

Ở giai đoạn thứ tư, lý thuyết cộng sản lấy việc xây dựng quyền lãnh đạo thế giới làm nòng cốt, tiếp tục điều chỉnh, bổ sung thể hệ lý luận của bản thân, mưu đồ chỉ đạo Đảng Cộng sản phát động lật đổ trật tự thế giới ban đầu trên phạm vi toàn cầu, thành lập trật tự thế giới mới do ĐCSTQ làm chủ đạo.

Trong bốn giai đoạn kể trên, lý thuyết cộng sản không ngừng biến đổi bộ mặt bên ngoài của nó, những chính sách chủ trương ban đầu sau khi đưa ra một thời gian thì sau đó thường lật ngược lại. Dường như quan điểm và lý luận ở thời kỳ trước mâu thuẫn với thời kỳ sau. Thế nhưng, các lý luận tại các giai đoạn khác nhau đều có thể được tôn sùng là “Cống hiến to lớn đối với lý thuyết cộng sản”, hơn nữa nó còn nhận được sự tán đồng của Đảng Cộng sản thế hệ sau. Tình huống như thế đã xảy ra nhiều lần. Thực ra, sở dĩ những lý luận này đều được gọi là “Chủ nghĩa cộng sản” và được Đảng Cộng sản thần thánh hóa, là bởi vì chúng đều có một số điểm cơ bản chung. Những điểm cơ bản chung này chính là điểm căn bản tạo thành lý thuyết cộng sản, cũng chính là nội dung căn bản chủ yếu nhất của lý thuyết cộng sản.

2) Những điểm căn bản của lý thuyết cộng sản tại các giai đoạn khác nhau

Kết hợp với tình huống trong bốn giai đoạn phát triển tại Trung Quốc, chúng ta có thể khái quát chúng thành bốn điểm cơ bản chung như sau:

Thứ nhất, lý thuyết cộng sản hoàn toàn tương phản với văn hóa truyền thống Trung Hoa, xét về cả nội dung bản chất và lập trường.

Ví dụ, liên quan đến vấn đề vì sao cần giành lấy thiên hạ, làm sao đoạt được thiên hạ, văn hóa truyền thống Trung Hoa lấy sự tín ngưỡng đối với Thiên thượng làm căn bản, coi trọng thiên mệnh, lấy đức làm gốc, vậy nên là “vì để thiên hạ an định, dân sinh an lạc, do vậy mới cần giành lấy thiên hạ”, tin rằng “chỉ người đức hạnh mới có thiên mệnh”; hơn nữa tiêu chuẩn căn bản để phán đoán người ấy có đức hay không là tiêu chuẩn đạo đức ổn định của 5000 năm qua. Tuy nhiên, lý thuyết cộng sản lại cho rằng: sở dĩ cần giành lấy thiên hạ, mục đích là vì thực hiện chủ nghĩa cộng sản, thực hiện chế độ tài sản công hữu, điều này hoàn toàn tương phản với lý luận của truyền thống Trung Hoa.

Một ví dụ khác, liên quan đến vấn đề làm sao để trị vì thiên hạ, văn hóa truyền thống Trung Hoa lấy “Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín” làm tiêu chuẩn đạo đức cơ bản, lấy “Trung Hiếu Nhân Nghĩa” để trị vì thiên hạ, lấy “trọng nghĩa khinh lợi” làm tư tưởng chủ đạo. Thế mà lý thuyết thống trị thiên hạ của Đảng Cộng sản trong 30 năm đầu là lấy đấu tranh giai cấp làm bộ phận chủ yếu, nó hoàn toàn tương phản với “Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín”, hơn nữa nó tiêu trừ một cách triệt để, tinh vi, toàn diện và mang tính hệ thống đối với văn hóa truyền thống Trung Hoa; 30 năm tiếp theo, nó cổ súy lấy lợi ích làm gốc, cổ động dân chúng, đồng thời dung túng cho quan chức dốc toàn lực truy cầu lợi ích. Điều này hoàn toàn tương phản với lý luận của truyền thống Trung Hoa.

Ngoài ra, liên quan đến vấn đề làm sao trở thành chủ chung của thiên hạ, được ủng hộ tại trường quốc tế, văn hóa truyền thống Trung Hoa cũng là lấy tín ngưỡng đối với Thượng Thiên là gốc, coi việc lập đức lập công làm gốc, thuận theo thiên mệnh, duy hộ phương thức sinh hoạt truyền thống mà Thượng Thiên cấp cho nhân loại. Còn lý luận cộng sản lại lấy chủ nghĩa Marx và thuyết vô thần làm tiêu chí căn bản của bản thân nó, điều này hoàn toàn tương phản với hệ thống tín ngưỡng, hệ thống lý luận của truyền thống Trung Hoa. Chủ nghĩa cộng sản lấy việc dám đấu tranh, giỏi đấu tranh, mưu kế đa đoan, gây chia rẽ, dẫn dụ bằng lợi ích v.v. làm sách lược, những thứ nó thi hành là bá đạo và quỷ kế, so với thuật vương đạo, đức hóa của truyền thống Trung Hoa hoàn toàn tương phản.

Dù rằng nhiệm vụ cụ thể, phương thức sách lược, nội dung lý luận của lý thuyết cộng sản trong bốn giai đoạn đều không giống nhau, nhưng tại mỗi một giai đoạn đều có điểm chung là hoàn toàn khác với tín ngưỡng, lý luận, phương thưc của văn hóa truyền thống Trung Hoa. Về mặt này, chủ nghĩa cộng sản ở trong các giai đoạn là có đặc điểm tương đồng với nhau (hoàn toàn tương phản với văn hóa truyền thống Trung Hoa).

Thứ hai, luôn hô hào cần thực hiện chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới

Cũng chính là nói, bất luận bản thân người theo Đảng Cộng sản có tin rằng “Chủ nghĩa cộng sản nhất định sẽ trở thành hiện thực” hay không, thì họ đều hô hào rằng “cần thực hiện chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới”.

Về vấn đề này, chúng ta nên từ góc độ lịch sử để quan sát nhìn nhận. Đầu tiên hãy nói về Marx, liên quan việc bản thân Marx có thật sự tin “Chủ nghĩa cộng sản nhất định có thể trở thành hiện thực” hay không, dựa theo phán đoán từ góc độ lý tính, cá nhân tôi cảm thấy hoài nghi. Tôi tin rằng bản thân Marx cũng không hề tin chủ nghĩa cộng sản, chỉ hô hào “cần thực hiện chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới”, kỳ thực chính là lừa dối người khác mà thôi. Nhưng hoài nghi chung quy vẫn chỉ là hoài nghi, trong tay tôi hiện nay không có tài liệu lịch sử chứng minh điều đó, vậy nên không thể kết luận được điều gì cả.

Những người theo Đảng Cộng sản Trung Quốc vì tin rằng “Chủ nghĩa cộng sản nhất định sẽ được thực hiện trên toàn thế giới”, nên họ mới kiên trì chủ nghĩa cộng sản. Ví dụ, vào giai đoạn đầu khi chủ nghĩa cộng sản tiến nhập vào Trung Quốc, vừa đúng thời kỳ đặc thù dân tộc Trung Hoa đang lâm nạn, đại đa số người Đảng Cộng sản đều tin “Chủ nghĩa cộng sản nhất định sẽ trở thành hiện thực trên toàn thế giới”, vì vậy họ mới gia nhập cái Đảng Cộng sản không có địa vị chính quyền này. Hơn nữa, trong giai đoạn hai của lý thuyết cộng sản, Đảng Cộng sản dựa vào việc tuyên truyền và nhồi nhét khi đã nắm địa vị chấp chính, nên đại đa số người của Đảng Cộng sản và cả người Trung Quốc cũng là tin vào tuyên truyền, tin rằng “Chủ nghĩa cộng sản nhất định sẽ trở thành hiện thực trên toàn thế giới”. Vì thế mà họ rơi vào vòng xoáy đấu tranh giai cấp.

Nhưng người của Đảng Cộng sản cũng từng không tin chủ nghĩa cộng sản, mà vẫn tiếp tục hô hào “Chủ nghĩa cộng sản nhất định sẽ trở thành hiện thực trên toàn thế giới”. Ví dụ, trong giai đoạn ba của lý thuyết cộng sản, ngày càng nhiều người của Đảng Cộng sản, người Trung Quốc nhìn rõ “Cần phải cải cách mở cửa mới có thể giàu có và cường thịnh”, minh bạch đạo lý rằng “Chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể mang lại sự nghèo khổ”, cũng minh bạch rằng “Chủ nghĩa cộng sản là không thể thực hiện được”, vì vậy mới làm kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường và hình thức đầu tư cổ phần, v.v. Nhưng lúc đó Đảng Cộng sản vẫn kiên trì khẩu hiệu “Chủ nghĩa cộng sản nhất định sẽ trở thành hiện thực trên toàn thế giới”, sau đó lại đưa ra cách nói “giai đoạn sơ cấp của chủ nghĩa xã hội” làm lá chắn cho bản thân. Còn có giai đoạn thứ tư của lý thuyết cộng sản, người của Đảng Cộng sản và người Trung Quốc kỳ thực cũng không hoàn toàn quên đạo lý mà bản thân họ đã minh bạch: “Chủ nghĩa cộng sản là không thể thực hiện được”. Cũng chính là nói, tại giai đoạn ba và giai đoạn bốn, người của Đảng Cộng sản và người Trung Quốc đã không còn tin vào chủ nghĩa cộng sản nữa rồi. Nhưng, Trung Cộng vẫn tiếp tục công khai hô to khẩu hiệu “Nhất định cần hiện thực chủ nghĩa cộng sản, vì thực hiện chủ nghĩa cộng sản mà phấn đấu”.

Vô luận là tại thời kỳ lịch sử mà mọi người chân thành tin vào “Chủ nghĩa cộng sản nhất định sẽ trở thành hiện thực”, hay thời kỳ lịch sử mà mọi người không còn tin vào điều này nữa, bản thân lý thuyết cộng sản đều sẽ hô hào “Chủ nghĩa cộng sản nhất định phải trở thành hiện thực, phấn đấu để thực hiện chủ nghĩa cộng sản”, luôn luôn dương cao khẩu hiệu này. Đây là điểm chung của lý thuyết cộng sản tại các giai đoạn lịch sử khác nhau, là một trong những điểm căn bản của lý thuyết cộng sản.

Thứ ba, luôn hô hào cần phải giữ vững sự lãnh đạo của Đảng

Từ điều một đến điều bốn của lý thuyết cộng sản, toàn bộ các giai đoạn lịch sử nó đều hô hào cần phải giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Vì sao phải giữ vững? Lý thuyết cộng sản đáp rằng: Vì để thực hiện lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, thì cần phải giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Kỳ thực, đây chính là thời kỳ lịch sử không tin “Chủ nghĩa cộng sản nhất định sẽ trở thành hiện thực”, lý thuyết cộng sản vẫn cần hô hào “Kiên định vào lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, phấn đấu để thực hiện chủ nghĩa cộng sản”. Mục đích của nó chính là cần thông qua phương thức hô hào khẩu hiệu “Chủ nghĩa cộng sản nhất định cần thực hiện, phấn đấu vì để thực hiện chủ nghĩa cộng sản”, để sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản có tính hợp pháp lâu dài, không thể thay thế. Đây là một điểm căn bản, điểm cơ bản khác của lý thuyết cộng sản.

Thứ tư, luôn quy định tính chất và đặc trưng của tổ chức Đảng Cộng sản

Lý thuyết cộng sản bất luận vào thời kỳ nào đều nghiêm chỉnh quy định các hành vi quy phạm cho đảng viên cộng sản và tổ chức Đảng Cộng sản, vô luận lý thuyết cộng sản vào thời kỳ nào đi nữa, nó đều nghiêm túc quy định quy phạm tư tưởng, hành vi của đảng viên cộng sản và tổ chức Đảng Cộng sản, cũng như quy định tính chất của Đảng Cộng sản, bao gồm đường lối tư tưởng, đường lối tổ chức, đường lối chính trị của Đảng Cộng sản. Đây cũng là một điểm cơ bản, điểm căn bản của lý thuyết cộng sản.

Bốn điều trên là các điểm cơ bản, điểm căn bản của lý thuyết cộng sản được thể hiện tại các thời kỳ lịch sử khác nhau. Chỉ cần phù hợp với bốn điểm cơ bản nêu trên, Đảng Cộng sản liền có thể đem các loại lý luận, biện pháp, phương pháp, chính sách, … nói là “Vì sự phát triển của chủ nghĩa Marx”, hết thảy dán lên biển hiệu “Chủ nghĩa cộng sản” để cung phụng, đồng tình, thúc đẩy. Vì vậy những điều này chính là điểm căn bản chung của lý thuyết cộng sản và là nội dung cơ bản chủ yếu.

3) Đặc trưng căn bản của Đảng Cộng sản được tạo nên bởi lý thuyết cộng sản

Đảng Cộng sản là gì? Đảng Cộng sản được lý thuyết cộng sản tạo nên, dùng làm công cụ chủ yếu để thực hiện chủ nghĩa cộng sản, thống trị quốc gia, cũng như hoàn thành các nhiệm vụ khác nhau. Đặc trưng của Đảng Cộng sản là từ đâu? Là do lý thuyết cộng sản quy định. Vậy thì lý thuyết cộng sản đã đưa vào Đảng Cộng sản những đặc trưng gì? Để biết đáp án này, chúng ta cần phải hiểu rõ lý thuyết cộng sản, mặt trọng yếu của bản chất chủ nghĩa cộng sản. Từ góc độ dễ hiểu nhất mà quy nạp lại, bao gồm những điểm như sau:

Một, lấy chủ nghĩa duy vật của thuyết vô thần làm nền tảng.

Điều này cấu thành nên đường lối tư tưởng của Đảng Cộng sản. Tác dụng căn bản của nó là đảm bảo rằng Đảng Cộng sản nhất định sẽ đối lập với văn hóa truyền thống Trung Hoa về bản chất.

Thứ hai, dùng phương thức phục tùng cấp trên và tổ chức Đảng một cách vô điều kiện, lập nên hệ thống kiểm soát theo hình kim tự tháp.

Nội dung cụ thể của nó là “Cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, toàn Đảng phục tùng Trung ương”. Điều này cấu thành nên đảng tính của Đảng Cộng sản và là đường lối tổ chức của Đảng Cộng sản. Tác dụng của nó là bảo đảm lực kiểm soát của nó đối với nội bộ Đảng.

Thứ ba, thành lập tổ chức Đảng khắp nơi, phát huy tác dụng của tổ chức Đảng, nhằm kiện toàn sự lãnh đạo của Đảng.

Đây là phương thức cơ bản giúp Đảng Cộng sản kiểm soát toàn bộ xã hội và lãnh đạo toàn bộ quốc gia. Tác dụng của nó là bảo đảm Đảng Cộng sản có thể kiểm soát quân đội và các loại tài nguyên của xã hội, từ đó có thể thống trị quốc gia, vượt trên cả pháp luật, có thể trực tiếp áp đặt ý chí của bản thân nó lên nhân dân và quốc gia.

Điều này tạo nên phương diện đối ngoại của đường lối chính trị của Đảng Cộng sản, tức là yêu cầu tất cả những gì ngoài Đảng Cộng sản đều cần phải nghe theo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nếu không thì sẽ dùng tất cả tài nguyên của quốc gia như quân đội để trấn áp.

Thứ tư, phương thức cá nhân tìm tổ chức, toàn Đảng phục tùng Trung ương, nhằm bảo đảm cho sự sinh tồn lâu dài của Đảng.

Nói một các toàn diện, chính là “dùng mô thức tư duy cá nhân tìm tổ chức, toàn Đảng phục tùng Trung ương, ưu tiên bảo đảm sự sinh tồn của toàn thể Đảng Cộng sản lên hàng đầu để bảo đảm sự sinh tồn lâu dài của Đảng Cộng sản”.

Điều này cấu thành nên tư tưởng chỉ đạo trong việc Đảng Cộng sản tiến hành chuyển giao quyền lực nội bộ, là phương diện đối nội về đường lối chính trị của Đảng Cộng sản. Tác dụng của nó là bảo đảm khi Đảng Cộng sản gặp phải các loại nguy cơ sinh tồn trong nội bộ hay từ bên ngoài, thì nó có thể kịp thời tự mình chỉnh đốn, sau đó toàn Đảng chiểu theo các phương thức tư duy này để tiếp tục đi theo, từ đó bảo trì Đảng Cộng sản không chia rẽ, bảo trì sự tồn tại vĩnh viễn của Đảng Cộng sản, để nó tiếp tục tồn tại.

Bốn phương diện nêu trên cấu thành nên đặc trưng đường lối tư tưởng, đặc trưng đường lối tổ chức, đặc trưng đường lối chính trị của Đảng Cộng sản chính là do lý thuyết cộng sản đưa vào, đó là quy định mang tính căn bản của Đảng Cộng sản.

4) Kết cấu nội bộ của lý thuyết cộng sản

Trong bốn điểm cơ bản kể trên của lý thuyết cộng sản, có một điểm cốt lõi, đó chính là tương phản với văn hóa truyền thống Trung Hoa.

Trong đó, điểm căn bản thứ hai “Hô hào cần phải thực hiện chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới” chính là cung cấp tính hợp pháp và lý do cho điểm cơ bản thứ ba “cần phải duy trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”. Mà điểm cơ bản thứ hai “duy trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản” lại chính là thực thi cho điểm cơ bản thứ nhất “hoàn toàn tương phản truyền thống Trung Hoa”, nó là điểm mấu chốt để thực hiện điểm cơ bản thứ nhất của lý thuyết cộng sản.

https://drive.google.com/file/d/1qTmZ8OTSAx9tJH1PpCTcmfGPJQoOLA89/view?usp=drive_link

(Hình ảnh)

Điểm cơ bản thứ tư “Quy định đặc trưng và tính chất của tổ chức Đảng Cộng sản” chính là thực thi cho điểm cơ bản thứ ba “phải duy trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”. Nhìn sâu hơn, đây thực chất là thực thi điểm cơ bản đầu tiên của lý thuyết cộng sản “Nội dung thực chất và lập trường hoàn toàn trái ngược với văn hóa truyền thống Trung Quốc”.

Bởi vì, bản chất của văn hóa truyền thống Trung Hoa là tín ngưỡng vào thiện ác hữu báo, tín ngưỡng vào sự tồn tại của Thần, trên thực tế, cũng giảng về thiên mệnh, yêu cầu quân thần từ trên xuống dưới đều cần phải “lấy đức làm gốc”. Thế nhưng, bốn đặc trưng cơ bản của Đảng Cộng sản đã bao quát đường lối tư tưởng của chủ nghĩa duy vật vô thần luận, thể chế phục tùng tuyệt đối “cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương”, duy trì sự kiểm soát tuyệt đối của Đảng đối với xã hội, tận lực duy trì sự sinh tồn vĩnh viễn của Đảng, đều là muốn “lấy sự lãnh đạo của tổ chức Đảng làm gốc”, “lấy chủ nghĩa duy vật vô thần luận làm gốc”, hoàn toàn tương phản với lập trường của văn hóa truyền thống Trung Hoa. Vậy nên, bản chất cuối cùng về đặc trưng tổ chức của Đảng Cộng sản là “tương phản với văn hóa truyền thống Trung Hoa”.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/291050

Ngày đăng: 12-07-2025