Chương 4: Biểu hiện của người ta sau khi bị cải tạo tư tưởng (phần thượng) (audio)
Ảnh: Epoch Times
Mục lục
- Dùng tư tưởng của ác đảng để suy xét vấn đề, dùng ngôn ngữ mà đảng dạy cho để nói chuyện
Ngày nay ai còn có thể khống chế tư tưởng của người ta chứ?
Từ bị động chịu nhồi nhét đến tự hạn chế mình sau khi chủ động suy xét – trong khi mắng chửi thì vẫn ủng hộ Đảng Cộng sản
Hôm nay cười nhạo mình hôm qua dùng tư tưởng của đảng để suy xét vấn đề, ngày mai lại sẽ cười nhạo bản thân mình hôm nay
Mâu thuẫn trong việc kỳ vọng vào Trung Cộng: Kỳ vọng bằng như là không còn hy vọng
Một số ví dụ điển hình
1) Kinh tế phồn vinh bề mặt mang đến xung kích về thị giác: “Hãy phát triển kinh tế đã rồi hãy nói”
2) “Ổn định áp đảo hết thảy”
3) “Người khác cũng vậy thôi”
4) “Muốn nói tôi làm chưa tốt, thì bản thân anh hãy làm tốt trước đã”
5) “Đối với Đảng Cộng sản phải nhìn nhận cả hai mặt [tốt xấu] của nó”
6) “Quyền no ấm cao hơn nhân quyền”
- Không tin Thần khiến người ta làm việc gì cũng không tính đến hậu quả, việc xấu nào cũng dám làm
1) Coi thường sinh mệnh, tùy tiện giết người
2) Đấu Trời đấu Đất, phá hoại tự nhiên
3) Thói đời xuống dốc – không nói chuyện đạo đức
4) Tình dục tràn lan tạo thành khủng hoảng xã hội
5) Công nghiệp hoá tình dục, cờ bạc, ma tuý – Quan chức trở thành ô dù bảo hộ
====================
Sau này đứng tại tương lai nhìn lại lịch sử nhân loại hôm nay, người ta sẽ thực sự thấy được từng màn kinh tâm động phách, huyên náo ầm ĩ và gió tanh mưa máu mà tà linh cộng sản đã ngang nhiên bạo ngược gây ra cho mảnh đất Trung Hoa. Trong vòng vỏn vẹn mấy chục năm, trên mảnh đất Thần Châu này, Đảng Cộng sản dựa vào từng lần từng lần giết chóc, từng lượt từng lượt phê phán, từng đợt từng đợt nhồi nhét, đã kiến lập nên một cái bộ lạc “văn hoá đảng” chẳng ăn nhập chút nào với truyền thống của chúng ta. Trong cái bộ lạc này, Đảng Cộng sản tuyên truyền Vô Thần luận, tuyên truyền Thuyết duy vật, phủ định văn hoá truyền thống Thần truyền, tuyên truyền sự vĩ đại của Marx-Engels-Lenin-Stalin-Mao Trạch Đông, từ đó thay thế một cách có hệ thống văn hoá truyền thống; trong cái bộ lạc này, Đảng Cộng sản phê phán Nho [giáo] Thích [giáo] Đạo [giáo], phê phán quan niệm truyền thống, nhồi nhét tư tưởng đấu tranh, tà thuyết cá lớn nuốt cá bé, kẻ thích ứng là kẻ sinh tồn, vì mục đích chính trị mà nhồi nhét thuyết tiến hoá và khoa học hiện đại, từ đó tiến hành cải tạo tư tưởng một cách hệ thống; trong cái bộ lạc này, Đảng Cộng sản còn lợi dụng các thủ đoạn nhồi nhét ở khắp mọi nơi, trải rộng từ cơ quan tuyên truyền cho đến sách giáo khoa, từ “văn nhân khuyển nho” [1] cho đến các chủng hình thức văn nghệ, đã triệt để tẩy não con người. Than ôi! Máu nhuộm Thần Châu, sơn hà đổi sắc. Gốc rễ văn hoá Thần truyền 5.000 năm đã bị đoạn tuyệt, người ta đã không còn công nhận tổ tiên Hoa Hạ, mà cam chịu làm con cháu Mác-Lê, trong thời gian ngắn ngủi, Đảng Cộng sản thực sự đã triệt để cải tạo tư tưởng người ta rồi.
Có một câu chuyện cười nói về đề thi khảo thí vào đại học “Xin hãy nói một chút quan điểm cá nhân về tình trạng thiếu hụt lương thực của một số quốc gia trên thế giới”, kết quả thí sinh người Mỹ không biết thế nào là “thiếu hụt”, thí sinh Bắc Hàn không biết thế nào là “lương thực”, mà thí sinh Trung Quốc lại không biết thế nào là “quan điểm cá nhân”. Câu chuyện cười này đã phản ánh [tình trạng] người dân Trung Quốc trong vòng mấy chục năm sống dưới tuyên truyền và áp lực cao cũng như thực tiễn vận động của Trung Cộng, “tư tưởng cá nhân” đã trở thành vật hy hữu [hiếm có] rồi.
Tư tưởng khống chế ngôn ngữ của người ta, hành vi của người ta và tư tưởng tiếp theo của người ta. Sau khi bị cải tạo tư tưởng, biểu hiện của người ta đương nhiên sẽ khác một trời một vực với bản tính vốn có – người ta quen với việc dùng tư tưởng của ác đảng để suy xét vấn đề, dùng ngôn ngữ ác đảng dạy cho để nói chuyện; không tin Thần, làm việc gì cũng không tính đến hậu quả, chuyện xấu gì cũng dám làm; trời không sợ đất không sợ, miệng đầy lời bẩn thỉu, hành vi thấp kém; người Trung Quốc hiện nay, [nếu] bỏ đi văn hoá đảng, thì đều đã không biết nói lời của con người bình thường, không biết dùng tư duy của người bình thường nữa.
Có người nghĩ, đây chẳng phải là nói quá lên rồi? Ít nhất thì, bản thân Đảng Cộng sản cũng đều đang chế nhạo quá khứ, hiện tại so với trước kia thì chẳng phải đã khác rất nhiều rồi sao?
Năm 1979 là một mốc phân chia. Hiện nay khi nói đến lịch sử ba mươi năm trước, người ta sẽ cảm thấy lúc đó thật là hoang đường khôi hài, cảm giác được tình thế hiện tại đã trở nên rất bình thường rồi. Đúng vậy, người ta không còn tin tưởng vào Chủ nghĩa Cộng sản nữa, người ta không còn nói về “toàn tay chai sạn, đầy thân lấm bùn” nữa, người ta thậm chí cũng lớn tiếng hô hào phải khôi phục “Văn hoá truyền thống” rồi … thế nhưng, bản thân văn hoá đảng lại không hề cải biến, mà lại càng thành thục. Thể hệ lý luận của văn hoá đảng như vô Thần luận, duy vật luận, tiến hoá luận và triết học đấu tranh, vẫn là đá tảng của Trung Cộng và là “nhận thức khoa học chung” của người ta sau khi bị cải tạo tư tưởng, thủ đoạn nhồi nhét mà văn hoá đảng dựa vào vẫn không hề thu hẹp lại, thuận theo việc TV ngày càng phổ biến, việc dùng “thanh tình tịnh mậu” (sự lôi cuốn hấp dẫn) để cải tạo tư tưởng của người ta càng trở nên dễ dàng hơn, còn trước sự phổ cập của Internet, hơn lúc nào hết, Trung Cộng càng sốt sắng phong toả, lọc và giám sát mạng. Cái gọi là khôi phục “Văn hoá truyền thống” của Trung Cộng là chiểu theo những thứ mô thức tư duy như vô Thần luận, duy vật luận của văn hoá đảng để dùng trộm truyền thống sau khi tước bỏ nội hàm của Văn hoá truyền thống. Mục đích căn bản của khôi phục văn hóa truyền thống hoàn toàn là vì truy cầu lợi ích kinh tế và được quốc tế thừa nhận. Cái khôi phục này đương nhiên không phải là Văn hoá truyền thống chân chính mà trái lại, sau khi tiến hành bước đầu tiên là cắt xén thần vận của Văn hoá truyền thống, đã tiến hành bước thứ hai là cắt xén nội dung bề mặt của Văn hoá truyền thống.
Cho nên, dù là quá khứ, hay là hiện tại, sau khi bị cải tạo tư tưởng người ta đều có biểu hiện giống nhau.
1. Dùng tư tưởng của ác đảng để suy xét vấn đề, dùng ngôn ngữ mà ác đảng dạy cho để nói chuyện
Mặc dù việc thay thế Văn hoá truyền thống và cải tạo tư tưởng của người ta là chính sách nhất quán từ đầu tới cuối của Trung Cộng trong mấy chục năm, thế nhưng, trong các thời kỳ khác nhau tư tưởng và ngôn ngữ của Trung Cộng cũng biến hoá vô thường. Từ “đấu tranh giai cấp, một nhát liền trúng” đến không thể không “dò đá qua sông”, từ “thà làm cỏ của chủ nghĩa xã hội, còn hơn làm lúa non của chủ nghĩa tư bản” đến “bất kể mèo trắng mèo đen”, từ “Đại Cách mạng Văn hoá giai cấp vô sản đúng là tốt mà, đúng là tốt” đến “cờ xí rực rỡ ngăn cản ‘động loạn’”, từ “càng bần cùng càng vinh quang” đến “để một bộ phận người trở nên giàu có trước”, “chê cười nghèo hèn không chê cười kỹ nữ”, từ ca tụng “Trương Thiết Sinh nộp bài thi trắng” đến giới học thuật hiện tại vì cầu danh lợi mà “hủ bại trong học thuật” một cách thịnh hành, từ “chủ nghĩa cấm dục” trước kia đến “chủ nghĩa túng dục” của ngày hôm nay… Sự đổi trắng thay đen trong chính sách của Trung Cộng, thật là có thể khiến người ta hoa mắt chóng mặt.
Thế nhưng, biểu hiện của tư tưởng của người ta sau khi bị văn hoá đảng cải tạo chính là, bất kể là tư tưởng của đảng có thay đổi thế nào, người ta vẫn luôn theo đó mà thay đổi theo một cách mù quáng, vẫn luôn dùng tư tưởng của ác đảng để suy xét vấn đề, dùng ngôn ngữ mà ác đảng dạy cho để nói chuyện, từ đó vẫn luôn duy hộ sự thống trị của ác đảng.
Trong thời đại “nhất cú đính nhất vạn cú” (một câu thay một vạn câu) ấy, nói về việc dùng tư tưởng của ác đảng để suy xét vấn đề, người ta tin. Những câu “Được cha mẹ yêu không bằng được Mao chủ tịch yêu”, “con người gan lớn bao nhiêu, đất có sản lượng cao bấy nhiêu”, “công xã nhân dân là tốt”, “nhất định không được quên đấu tranh giai cấp”, “trời đất rộng lớn, tha hồ phát huy tài năng ”, “đấu tư phê tu” (đấu tư sản, phê phán người theo chủ nghĩa xét lại), “quét sạch ngưu quỷ xà thần”, “nắm chắc cách mạng, đẩy mạnh sản xuất ”, “cha anh hùng thì con hảo hán, cha phản động thì con khốn nạn”, “nhân dân toàn thế giới liên kết lại, đánh bại chủ nghĩa đế quốc Mỹ và hết thảy tay sai”… lúc đó chỉ toàn những thanh âm ấy, người ta dường như đương nhiên chỉ biết thuận theo tư tưởng và ngôn ngữ của ác đảng mà suy xét mà nói chuyện.
Hiện tại tin tức truyền đạt nhanh như vậy, nhiều như vậy, ngôn luận cũng đã nới lỏng hơn trước kia bao nhiêu rồi, bàn dân trăm họ đều dám mắng chửi Đảng Cộng sản mấy câu rồi, người ta đều đang ở trong trạng thái suy xét độc lập, làm sao có thể nói là vẫn còn dùng tư tưởng của ác đảng để suy xét vấn đề được?
Ngày nay ai còn có thể khống chế tư tưởng người ta chứ?
Vậy chúng ta cùng xem xem người ta hiện nay đều đang nghĩ những gì: “Không có Đảng Cộng sản, thì Trung Quốc phải làm sao”, “Trung Quốc không thể làm dân chủ, nếu làm thì sẽ loạn”, “Đừng bám chắc quá khứ của Đảng Cộng sản mà không buông, hết thảy phải nhìn về phía trước”, “Cho Đảng Cộng sản thời gian, tự do dân chủ sớm muộn cũng sẽ đến”, “Nhân quyền là quyền được no ấm, ăn còn chưa đủ no, nói gì đến nhân quyền”, “Cái gì mà tôn giáo tín ngưỡng, ở đâu có Thần, phải phá trừ mê tín, yêu chuộng khoa học”, “Việc xấu đều là vấn đề tố chất của những người cá biệt, bản thân đảng là tốt”, “Quốc gia lớn như vầy, thay ai vào thì chẳng như nhau?”, “Ai phản đối Đảng Cộng sản, đó chính là làm chính trị, chính là bị người ta lợi dụng”, “Bắp tay không đọ được bắp đùi, có gì mà tranh cãi?”, “Ổn định áp đảo hết thảy”, “Khiến kinh tế phát triển rồi hãy nói” v.v.., người ta thông thường cứ cho rằng những quan điểm này là bản thân suy xét lý tính độc lập, mà không phải đến từ nhồi nhét [tuyên truyền] một chiều của Trung Cộng.
Người ta thực sự đang thực hiện suy xét một cách lý tính độc lập chăng? Kỳ thực không hẳn. Mọi người thử nghĩ xem, những quan điểm ở trên, chẳng sót cái nào đều là Đảng Cộng sản vì để duy trì thống trị mà tuyên truyền nhồi nhét, và đã tính toán mọi cách để người ta tiếp thu những thứ của nó. Chỉ bất quá “tạo phản có lý” đã biến thành “ổn định (của đảng) áp đảo hết thảy ”. Có thể nói, khi người ta cho rằng bản thân đã thoát khỏi sùng bái mù quáng, lại cảm thấy đã có lực miễn dịch đối với sự khống chế tư tưởng của Đảng Cộng sản, thì văn hoá đảng lại đang kiểm soát mô thức tư duy của người ta một cách chắc chắn, chỉ là vào ba mươi năm trước, tư tưởng của người ta phần nhiều là do bị đảng trực tiếp nhồi nhét vào mà thành như vậy, còn người ta hôm nay sau khi đã trải qua nhiều năm lăn lộn, không còn “mù quáng”, cảm thấy bản thân có thể suy xét một cách “độc lập”, “lý tính” rồi.
Từ bị động nhồi nhét đến chủ động tự giới hạn bản thân sau khi chủ động suy xét – trong khi mắng chửi thì vẫn ủng hộ Đảng Cộng sản
Bất hạnh là, trong quá trình suy xét này, thể hệ lý luận của việc suy xét vẫn là Đảng Cộng sản mang lại, nguồn gốc tin tức dùng để suy xét vẫn là Đảng Cộng sản cấp cho, cái gọi là “độc lập” bất quá chỉ là cái “độc lập” trong cái khung văn hoá đảng, cái gọi là “lý tính” cũng bất quá chỉ là cái “lý tính” trong thể hệ lý luận văn hoá đảng, rất hiển nhiên, kết quả đạt được sau khi suy xét như vậy đương nhiên chính là kết quả mà Đảng Cộng sản vẫn kỳ vọng đạt được.
Vì sao suy xét một cách “độc lập” của người ta lại không thể trở nên độc lập được? Có một vài nhân tố dưới đây.
(1) Sự gắn bó với mẹ đảng trong cái “suy xét độc lập”
“Đảng là tất cả, đảng là mẹ”, “cuộc đời là đảng cấp cho”, “cơm là đảng cấp cho”, cái chủng “tình mẫu tử” này đã sớm thâm nhập vào tâm con người đến vài thập niên. Mặc dù hiện tại không cao giọng ca hát lộ liễu rằng “ôi đảng, mẹ thân ái của tôi” giống như trước kia, thế nhưng, đảng không đâu không có mặt, uy quyền chí cao vô thượng, khống chế bát cơm manh áo của người ta, vẫn như trước đây khiến người ta cảm thấy “quốc gia chính là đảng”, “bát cơm là đảng cấp cho”, “Đảng Cộng sản là sự lựa chọn duy nhất của dân tộc Trung Hoa”, coi những khái niệm như đảng, quốc gia, dân tộc lẫn lộn làm một, toàn bộ hoàn cảnh sinh sống dường như đều là đảng kiến tạo, trợ cấp, duy trì. Đây đã trở thành một đường biên, khi người ta suy xét vấn đề Trung Quốc, thì không thể vượt qua Đảng Cộng sản, tưởng tượng không ra rằng ngày nào không có đảng thì sẽ phải sống ra sao. Người ngoài giới rất khó hiểu được loại tâm thái này, đứa trẻ lớn rồi, chẳng phải sẽ cao chạy xa bay rồi sao? Thế nhưng, hoàn cảnh có tính phong bế, áp lực cao của Văn hóa đảng là khiến con người có thể già đi, nhưng tư tưởng lại không lớn lên được, vậy đứa trẻ ấy có thể rời khỏi mẹ chăng?
(2) Cơ sở lý luận của “suy xét độc lập”
Cơ sở lý luận để người ta suy xét vấn đề vẫn là vô Thần luận, chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, tiến hoá luận, triết học đấu tranh và cái gọi là chủ nghĩa xã hội khoa học, khiến người ta không tin rằng ngoài đảng ra còn có “Thần và Trời” tồn tại. Từ vựng cơ bản hoặc hệ thống ngôn ngữ mà người ta vẫn dựa vào để suy xét, vẫn được phú cho cái hàm nghĩa của Văn hóa đảng, đều là ngôn ngữ mà Trung Cộng dạy cho, điều này khiến người ta chỉ có thể ở trong Văn hoá đảng mà chuyển động, thậm chí đối với phương thức tư duy vượt khỏi cái đường biên “không có Đảng Cộng sản” người ta còn cảm thấy lơ mơ hoảng sợ. Đồng thời, vận động chính trị vẫn luôn không ngừng, ví như, những [cuộc vận động] phản tự do hoá, trấn áp “Lục tứ” và bức hại Pháp Luân Công trong những năm gần đây, mỗi một cuộc vận động chính trị mang tính toàn quốc này, đều là lại một lần nữa ôn lại và tăng cường một cách toàn diện đối với lý luận Văn hoá đảng.
(3) “Tin tức không hoàn chỉnh” ảnh hưởng đến quá trình suy xét
Nguồn gốc tin tức mà người ta dùng để suy xét vấn đề vẫn chịu khống chế nghiêm mật của Đảng Cộng sản, ngay cả tin tức phụ diện đều là dưới khống chế tỉ mỉ của đảng, chuyển hoá thành tài liệu duy hộ thiên hạ của đảng một cách hữu hiệu. Tục ngữ có câu “kiêm thính tắc minh” (nghe ý kiến nhiều mặt thì sáng rõ vấn đề), một cá nhân mà nghe hiểu được hai quan điểm trái chiều, hơn nữa lại cho rằng đều là lời có đạo lý, thì họ tất sẽ bắt đầu tự mình suy xét lý tính một cách độc lập thực sự để thực hiện việc lựa chọn. Mà sự phong toả, lọc bỏ tin tức và [tuyên truyền] một chiều của Trung Cộng tạo thành việc “tin tức không hoàn chỉnh một cách nghiêm trọng”, trên thực tế đã cắt đứt điều kiện tất yếu để đưa ra phán đoán chính xác của người ta. Bộ não có thông minh đến mấy, có nguyện vọng suy xét độc lập đến mấy cũng không thể thoát ra khỏi tình huống “nấu cơm không gạo”, không bột đố gột nên hồ, loại suy xét như vậy cũng sẽ không thể coi là suy xét “lý tính độc lập” được.
(4) “Cường quyền luận” khiến suy xét của người ta trở nên vô nghĩa
“Đảng Cộng sản là cường quyền, đảng là tàn khốc, chống đối lại đảng tuyệt không có kết cục tốt đẹp.” Đây là công thức mà người ta đạt được sau mấy chục năm vận động. Ngay cả với những người thống hận Đảng Cộng sản, nhưng bởi vì sợ hãi chính trị cường quyền, khiến cho về mặt tâm lý suy xét rất khó vượt khỏi Đảng Cộng sản, cảm thấy rằng “anh có thể làm gì Đảng Cộng sản đây?”, từ đó quay trở lại dựa vào tâm thái “nhìn thấu cõi hồng trần của Trung Cộng” mà phụ hoạ theo Trung Cộng, cũng theo đó mà cảm khái rằng “không có Đảng Cộng sản, Trung Quốc phải làm sao?” Một điều thường được người ta xem như tượng trưng cho sự nới lỏng ngôn luận – đó là “ít nhất thì trong lòng có thể mắng chửi Đảng Cộng sản rồi” – nhưng thực ra, trong khi mắng chửi mà lý giải (thông cảm) cho đảng, cuối cùng duy hộ hiện trạng, ủng hộ Đảng Cộng sản một cách biến tướng.
Nhân tố ảnh hưởng đến suy xét độc lập của người ta vẫn còn rất nhiều. Cái chủng hiện tượng sau khi trải qua “suy xét” vẫn là nhất trí với đảng này, so với sự nhồi nhét trực tiếp trước kia thì còn có tính nguy hại hơn. Một khi cho rằng những cách nghĩ kia là “tư tưởng” độc lập của bản thân, thì sẽ càng thêm tin tưởng vào những quan điểm kia, một cách khách quan tạo thành việc nhất trí với đảng càng chủ động hơn, tự nhiên càng thuận tiện hơn cho việc Trung Cộng thống trị nhân dân. Nếu như nói quá khứ là một quá trình bị uốn nắn một cách bị động, thì ngày nay chính là quá trình mà Văn hoá đảng lên men chín muồi và người ta tự kiềm chế chủ động. Người ta từ nhồi nhét cưỡng bức trong quá khứ đến hiện nay chủ động tự hạn chế, phối hợp lý giải cho chính sách của đảng, “trong lúc mắng chửi thì vẫn ủng hộ đảng cộng sản”, chính là kết quả điển hình của việc Đảng Cộng sản trường kỳ cải tạo tư tưởng của nhân dân.
Những người hôm nay cười nhạo việc hôm qua dùng tư tưởng của đảng để suy xét vấn đề, ngày mai lại sẽ cười nhạo bản thân ngày hôm nay cũng như thế
Một hiện tượng rất có tính châm biếm chính là, nếu như lấy lịch sử của Trung Cộng phân thành từng thời đại một, người ta luôn là đứng tại điểm thời gian của “hiện tại”, ủng hộ đối với chính sách của đảng, còn đối với rất nhiều sự việc tại điểm thời gian của “quá khứ”, thì lại chế nhạo, cảm thấy lúc ấy mới hoang đường làm sao. Nếu như đem toạ độ thời gian dịch chuyển về quá khứ, sẽ phát hiện rằng những người đứng tại ngày hôm nay mà chế nhạo ngày hôm qua dùng tư tưởng của đảng để suy xét vấn đề, thì đứng tại vị trí của ngày hôm qua sẽ lại là cảm thấy hết thảy đều rất bình thường, vẫn ủng hộ chính sách của đảng lúc ấy như thế, rất có khả năng còn là đứng tại lúc ấy mà cười nhạo hành vi của ngày trước nữa. Những người hôm nay cho rằng Đảng Cộng sản có thể bức hại Pháp Luân Công, lùi ngược lại ba mươi năm, họ cũng sẽ cảm thấy Đảng Cộng sản nên phát động Cách mạng Văn hoá, lùi về trước nữa, họ cũng sẽ cảm thấy Đại nhảy vọt là anh minh chính xác y như vậy.
Nói đến câu “người có gan lớn chừng nào, đất có sản lượng cao chừng ấy”, người ta đều sẽ cười nhạo sự hoang đường của lúc đó. Kỳ thực, người ta hôm nay vẫn dùng cái kiểu logic này mà suy xét vấn đề như thế, chỉ là hình thức biểu hiện khác nhau, bản thân không cảm giác thấy mà thôi.
Sau khi liên tục mấy năm gặt hái được phát triển về nông nghiệp, “Nhân dân nhật báo” ngày 27 tháng 08 năm 1958 đã phát biểu một bài “Người có gan lớn chừng nào, đất có sản lượng cao chừng ấy”, đây là thư do người được Văn phòng Trung ương Trung Cộng phái đến huyện Thọ Trường tỉnh Sơn Đông để nắm bắt tình hình rồi viết gửi về. Vì để thuyết minh cho việc một mẫu có sản lượng vạn cân là “không hề thần bí một chút nào”, văn chương miêu tả một cách có thanh có sắc (thêm mắm thêm muối) rằng, chỉ cần đủ nước đủ phân thêm thâm canh thêm mật độ trồng, thì “một mẫu vạn cân sẽ thành hiện thực rồi”. Thậm chí còn có nhà khoa học đứng ra căn cứ vào khả năng lợi dụng năng lượng ánh sáng mặt trời của thực vật, mà trình bày thêm rằng tiềm lực sản xuất của một mẫu có thể đạt cao đến mức 5.85 vạn cân. Nếu như quay đầu nhìn lại ngôn luận và hành vi lúc đó, đều sẽ cảm thấy không thể tưởng tượng được.
Ngày nay, sự cải cách khập khiễng của Trung Cộng khiến kinh tế có chút phát triển, do đó dưới sự tuyên truyền và nhồi nhét của Trung Cộng, người ta đối với tương lai của Trung Quốc có một mô thức tư duy suy diễn thẳng tắp là: hiện tại chế tạo đồ chơi xuất khẩu, tương lai sẽ có thể chế tạo máy bay xuất khẩu; hiện tại là chênh lệch giàu nghèo, tương lai là cùng nhau giàu có; hiện tại có hủ bại, bất công xã hội, các vấn đề như phúc lợi giáo dục và y tế, tương lai đều sẽ giải quyết; hiện tại hoàn cảnh bị ô nhiễm, tương lai tự nhiên sẽ được xử lý; hiện tại năng lượng không đủ, tương lai nhất định có đủ; hiện tại là đông người phản kháng không ngừng, như thể núi lửa sắp phun trào, tương lai nhất định sẽ thành “hoà giải xã hội”; hiện tại đạo đức của người ta ngày một bại hoại, tương lai nhất định sẽ trở nên cao thượng; hiện tại là kinh tế phát triển, tương lai nhất định sẽ có chế độ tự do dân chủ phát triển … … “thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của Trung Quốc”, “Trung Quốc sẽ trở thành nước lớn siêu cấp hùng bá thế giới trong thế kỷ này” – kỳ thực, đây chính là phiên bản của “người có gan lớn chừng nào, đất có sản lượng cao chừng ấy” của thời đại mới.
Ở vào niên đại ấy, “người có gan lớn chừng nào, đất có sản lượng cao chừng ấy” đã tạo thành “phong trào cộng sản”, “phong trào thổi phồng” và “phong trào chỉ huy mù quáng”, khiến đại nhảy vọt biến thành đại thụt lùi, công xã nhân dân biến thành ‘không’ xã nhân dân (ý nói không còn người nào sống cả). Ngày nay sự nguy hại của chủng tư tưởng này tuyệt không kém hơn lúc ban đầu, hơn nữa do bị che lấp hơn trước, nên người ta không dễ dàng cảm giác thấy, càng trọng yếu hơn là, tư tưởng ban đầu là bị nhồi nhét, còn ngày nay chủng tư tưởng này của người ta lại là tự bản thân “suy xét” mà ra, nguy hại cũng sẽ càng sâu.
Kỳ thực, bản thân câu nói “người có gan lớn chừng nào, đất có sản lượng cao chừng ấy” đã rất “chủ nghĩa duy tâm”, bất quá là biểu đạt một loại khí phách và quyết tâm. Thế nhưng, một khi nội hàm triết học phổ thông bị rót Văn hoá đảng vào rồi, thì sẽ trở nên có tính huỷ diệt tột bậc. Từ chủ nghĩa duy vật cực đoan mà xét, thì đây không còn là biểu đạt quyết tâm, mà đã là yêu cầu phải biến thành mục tiêu hết sức thực tại, cái phải đạt được chính là chỉ tiêu sản lượng theo mẫu, chỉ tiêu phóng đại hết tầng này tầng khác, là sản lượng “một mẫu cho sản lượng vạn cân” cao như vệ tinh. Đảng Cộng sản vốn không tin vào Thần, điều nó truy cầu là cái tinh thần “dám bảo nhật nguyệt hoán đổi trời mới” không còn biết kiêng sợ là gì, có điều kiện thì phải tiến lên, không có điều kiện thì sáng tạo điều kiện cũng phải tiến lên, một thứ lờ mờ đã rót đầy tối tăm vào đầu óc của người ta. Từ đây chúng ta có thể phần nào thấy được văn hoá đảng đã làm méo mó nhân tính [thậm tệ] như thế nào.
Ngày xưa hô hào “nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa cộng sản” cổ động người ta bất chấp quy luật và hiện thực khách quan, phải là một mẫu cho sản lượng vạn cân, một mẫu sản lượng mười vạn cân. Sự rầm rộ “toàn diện quật khởi” ngày nay cũng đang kích động người ta đối diện với khủng hoảng của Trung Quốc mà nhắm mắt làm ngơ, tin tưởng mù quáng vào Trung Cộng y như thế. Cải cách khập khiễng hai mươi mấy năm đã mang đến những khủng hoảng cự đại cho Trung Quốc, nhưng người ta không hề giám sát Trung Cộng, không màng phê bình Trung Cộng, không màng suy xét lại Trung Cộng, không màng giải thể Trung Cộng, mà là không hành động, thậm chí phản đối người khác hành động, một cách mù quáng ký thác hết thảy kỳ vọng lên thân của Trung Cộng – vốn là kẻ tạo nên những khủng hoảng này, kỳ vọng Trung Cộng có mong muốn giải quyết, kỳ vọng Trung Cộng có năng lực giải quyết, diễn dịch lại mới một cách hết sức cẩn thận câu “người có gan lớn chừng nào, đất có sản lượng cao chừng ấy” của thế kỷ 21 thì – “người có kỳ vọng lớn chừng nào, thì Trung Cộng có thể có hy vọng lớn chừng ấy”.
Nghịch lý kỳ vọng đối với Trung Cộng: Kỳ vọng cũng bằng như không có hy vọng
Trong lịch sử của Trung Cộng, có nhiều lần điều chỉnh chính sách trọng đại, đều là do áp lực cự đại từ trong và ngoài đảng, cảm nhận được khủng hoảng “vong đảng” mới bất đắc dĩ tiến hành cải cách. Có nghĩa là, chỉ có gây áp lực lên Trung Cộng, thì Trung Cộng mới sửa đổi cho tốt hơn. Còn lịch sử nếu chỉ toàn là có kỳ vọng mà không có suy xét lại Trung Cộng, không vạch trần việc hành ác của Trung Cộng hiện nay, để mặc Trung Cộng, phụ hoạ theo Trung Cộng, dung túng Trung Cộng, thì Trung Cộng sẽ không cải biến. Do vậy, kỳ vọng cũng bằng như không có hy vọng.
Có thể nói như thế này, trong khi người ta “kỳ vọng” một cách mù quáng, trong sự huyễn tưởng của cái gọi là cấp cho Trung Cộng thời gian ba mươi năm, khủng hoảng xã hội có thể đã khiến Trung Quốc bị huỷ hoại không biết bao nhiêu lần rồi.
Càng trọng yếu hơn là, “cải cách cho tốt hơn” đối với Trung Cộng hiện nay mà nói, đã quá là xa xỉ rồi, bởi vì tội lỗi mà Trung Cộng tích luỹ từ ban đầu đã khiến nó căn bản không muốn, không dám, và sẽ không cải cách cho tốt hơn. Duy trì địa vị thống trị đã trở thành tất cả nền tảng cho việc giữ chặt lợi ích tập đoàn và cá nhân của Trung Cộng, ở trên mạng cảnh sát Trung Quốc có một câu khẩu hiệu gây sốc, chính là “duy hộ địa vị chấp chính của đảng”, vì vậy coi cảnh sát như là gia nô của đảng một cách không còn kiêng nể gì, có thể thấy Đảng Cộng sản thực sự là hạ quyết tâm “sẽ không hoàn lương”, mà sự kỳ vọng mù quáng của người ta càng là cấp thêm năng lượng cho Trung Cộng để nó không nguyện ý thuận theo trào lưu lịch sử. Rất hiển nhiên, Trung Cộng ngày nay đã trở thành chướng ngại căn bản để thảo luận lý tính và giải quyết vấn đề Trung Quốc, chỉ có giải thể hết Trung Cộng, khiến nhân dân Trung Quốc không còn gì phải lo lắng mà phát huy hết thảy thông minh tài trí, tự do thảo luận phương hướng và tiền đồ của quốc gia, dân tộc mới thực sự có kỳ vọng.
Tiếp theo chúng tôi đưa ra một vài ví dụ điển hình để nói rõ việc người ta ngày nay là dùng tư tưởng của ác đảng và ngôn ngữ mà ác đảng dạy cho như thế nào để suy xét vấn đề. Hiện tại sự chần chừ, nút thắt lớn nhất của người ta đối với Đảng Cộng sản chính là cải cách mở cửa trong vòng hai mươi năm đã mang đến cho Trung Quốc thay đổi to lớn. Dưới loại xung kích như vậy, đối với việc nhận thức Đảng Cộng sản như thế nào, Đảng Cộng sản có thay đổi hay không, có hy vọng hay không, người ta đều đã trở nên vô cùng bối rối.
1) Kinh tế phồn vinh bề mặt mang đến xung kích về thị giác: “Hãy phát triển kinh tế đã rồi hãy nói”
Xung kích thị giác và cảm quan đối với con người là to lớn. Dân chúng Trung Quốc vốn bị Đảng Cộng sản chỉnh cho sợ, làm cho sợ nghèo, nên sau khi đã có một chút cải thiện trong cuộc sống, liền rất dễ dàng hài lòng rồi. Lại trải qua những tuyên truyền như “ngày tháng tốt đẹp”, “thịnh thế đại liên hoan” [tên các bài hát hay hát ở Trung Quốc] năm này qua năm khác của Trung Cộng, như thể lại sắp “bắt kịp Anh vượt qua Mỹ”, khiến người ta đều bị lâng lâng cả rồi, Trung Cộng lại thừa nước đục thả câu, dùng sự phát triển kinh tế để tìm chỗ dựa cho tính hợp pháp của việc chấp chính của nó. Kỳ thực, kinh tế phát triển chẳng có chút quan hệ nào với Trung Cộng, công lao thuộc về nhân dân Trung Quốc cần cù lao động. Có người nói, chỉ cần có ngoại thương đầu tư, chỉ cần có nhà khoa học và kỹ sư trí tuệ, chỉ cần có công nhân chịu khổ nhẫn nại lao động và nông dân chịu thương chịu khó, thì cho dù mang đến cho nước nhỏ ở Châu Phi, cũng có thể trong vòng hai mươi mấy năm mà nổi lên một thế giới vật chất phồn vinh.
Thế nhưng, sự phát triển khập khiễng này có phù hợp với lợi ích lâu dài của dân tộc không? Vấn đề trình tự phát triển, cái gì trước, cái gì sau, quan hệ phụ thuộc lẫn nhau v.v., là một trong những vấn đề tối cơ bản trong quản lý hiện đại.
Thử nhìn xem đằng sau sự phồn hoa bề mặt của Trung Quốc là cảnh tượng như thế nào. Sự đình trệ của cải cách chính trị, sự dị dạng của thể chế kinh tế, sự bất công xã hội, hủ bại của quan trường, chênh lệch giàu nghèo, đạo đức sa đọa, phá hoại môi trường, tài nguyên thiếu hụt, đàn áp nghiêm trọng với nhân quyền, tín ngưỡng và đoàn thể tôn giáo, coi tự do dân chủ như địch, kìm kẹp đối với tự do cơ bản về ngôn luận và thông tin, nợ xấu của ngân hàng, khủng hoảng tài chính, xã hội đen, gái mại dâm, quần thể yếu thế (socially vulnerable groups) chiếm đại đa số nhân khẩu không có tiếng nói v.v.., cho đến mâu thuẫn xã hội rắc rối phức tạp, phong trào bảo vệ quyền lợi nhân dân nổi lên liên tiếp và biểu tình phản đối đông người gia tăng nhanh chóng (năm 2005 đạt 8 vạn) v.v.., càng chưa kể đến có ngày tự nhiên nổi gió bão bất ngờ trừng phạt và báo ứng. Chính quyền Trung Cộng dưới sự phồn vinh bề mặt, tựa như ngồi trên miệng núi lửa vậy. Cái gọi là tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trên thực tế là lấy sự phá hoại môi trường và lãng phí năng lượng làm trao đổi, nếu như tính đến sự đánh đổi về môi trường thì GDP thực tế của Trung Quốc những năm gần đây là tăng trưởng âm.
Đối với việc sự phát triển dị dạng nền kinh tế thành công tức thời của Trung Cộng mang đến khủng hoảng tiềm tại và có thể là tai nạn cho dân tộc Trung Hoa, người ta không muốn nghĩ đến, không muốn đối diện. Một là khuất phục trước cường quyền của Trung Cộng, cảm thấy rằng nghĩ cũng không tác dụng, còn tự tìm phiền toái, hai là cảm thấy cuộc sống hiện tại đúng là đã tốt hơn một chút, quản chi cái kiểu phát triển này có thể tiếp tục hay không, chỉ quan tâm đến “ngậm miệng phát tài lớn”. Còn những chính khách và người buôn bán ngoại thương chỉ vì kiếm tiền kia, họ chỉ mong muốn làm thế nào để có thể được chia một phần cuối cùng của chiếc bánh lớn thị trường thế giới. Mặc dù ngoại giới cho rằng phát triển của kinh tế sẽ mang đến cho Trung Quốc dân chủ và tự do, sự thực trong hai mươi mấy năm này đã chứng minh rằng ngoại thương không những không thể mang đến dân chủ tự do cho Trung Quốc, mà còn trở thành chất phụ gia trong chuỗi thức ăn hủ bại của Trung Cộng.
Có học giả phân Trung Quốc thành ba thế giới, thế giới thứ nhất sống trong các biệt thự để hưởng thụ đặc quyền đặc lợi, thế giới thứ hai đang vì chỗ ở, y tế và giáo dục của con cái mà không dám tiêu phí, thế giới thứ ba chính ở ranh giới no ấm mà khổ sở bươn chải. “Tổ công tác nghiên cứu chiến lược hiện đại hoá Trung Quốc” thuộc Viện Khoa học Trung Quốc đã viết cuốn sách “Báo cáo năm hiện đại hoá Trung Quốc năm 2005”, cho rằng kinh tế Trung Quốc lạc hậu hơn Mỹ quốc 100 năm, nếu như duy trì tỉ lệ tăng trưởng khoảng 9% trong 100 năm, mới có thể tiến nhập vào 10 nước đứng đầu thế giới. Duy trì tỉ lệ tăng trưởng kinh tế khoảng 9%, có thể được không? Có người bình luận rằng, thế kỷ tiếp theo còn xa mới là “thế kỷ của Trung Quốc”. Nhưng dưới sự phồn vinh theo kiểu hào nhoáng của những thành phố lớn, một Trung Quốc thực sự đã bị che đậy đi. Kinh tế bề mặt phồn vinh mang đến xung kích về thị giác, “nhất ‘tuấn’ già bách xú” (một điểm tốt che lấp trăm điểm xấu), giúp Trung Cộng khoác lên một lớp mặt nạ [mạng che mặt] làm mê hoặc người ta. Lợi ích ngắn hạn và triển vọng mù quáng ở mức độ rất lớn đã ức chế việc người ta toàn diện nhận thức hiện thực, “không biết bộ mặt thật của Lư Sơn” [Bất thức Lư Sơn chân diện mục] [2], càng không nói đến việc xét lại và suy xét lý tính đối với lịch sử của Đảng Cộng sản.
Chúng ta đều biết rằng công phu làm thơ nằm ở ngoài thơ. Cũng vậy, muốn đưa kinh tế thực sự phát triển lên, thì đầu tiên phải giải quyết một loạt những nhân tố phi kinh tế như tín ngưỡng, đạo đức, pháp luật, tự do ngôn luận, giám sát của truyền thông. Những vấn đề này không giải quyết, kinh tế cũng sẽ không thể “phát triển lên được”. “Đưa kinh tế phát triển lên rồi hãy nói” chỉ là mượn cớ thoái thác để trì hoãn việc cải cách thể chế của Trung Cộng mà thôi, nhưng hiện tại người ta thực ra không cảm nhận được, còn cho là chân lý. Kỳ thực chính là đã hãm nhập vào tư duy của Văn hóa đảng, chiếu theo tư tưởng của Trung Cộng mà suy xét vấn đề. Nhân dân Trung Quốc hiện tại có rất nhiều tự do, nhưng đều tập trung vào cuộc sống cá nhân, thể dục và giải trí, các phương diện khác thì lại là cấm địa. Các nước khác trong quá trình phát triển, nhân dân là tích cực tham dự vào cải cách chính trị và chế độ, giành lấy các loại quyền lợi cho bản thân, mà nhân dân Trung Quốc hiện tại không phải như vậy, đối với những dân chúng mà dám yêu cầu quyền lợi phản [đối] bức hại của Trung Cộng, rất nhiều người không những không hiểu, mà còn phản đối người khác giành lấy quyền lợi, bọn họ nguyện ý giao cấp hết thảy cho Đảng Cộng sản, huyễn tưởng Đảng Cộng sản tự động cải cách tốt hơn hoặc ban ân huệ.
Năm 2003 ở Trung Quốc Đại lục đã xuất hiện một bộ phim điện ảnh gây tranh cãi rộng khắp, nó chính là sê-ri bộ phim “Hướng đến Cộng Hoà”, sau đó nó bị cấm chiếu. Bộ phim hài kịch đã phơi bày một cách chân thực vận mệnh thất bại tất nhiên của cuộc cải cách mở cửa vương triều nhà Thanh, điểm này đối với Trung Cộng mà nói thì có mang tính kích thích. Vương triều nhà Thanh trước khi cải cách mở cửa là không có đèn điện, điện báo, điện thoại, cũng không có xe lửa và xe hơi. Trong mười mấy năm ngắn ngủi, bến Thượng Hải đã trở thành một trong bốn viên ngọc minh châu của thế giới, đã thành nơi vui chơi của các nhà thám hiểm của chủ nghĩa đế quốc, ba con đường đại lộ lớn của nó đều là một dãy nhà vườn, bên bờ sông đều là một dãy nhà cao tầng, trở thành bộ mặt của kỳ đầu cuộc cải cách mở cửa Trung Quốc. Nhưng cái thành tựu này có cứu được vận mệnh diệt vong của vương triều nhà Thanh chăng? Không cứu được. Năm 1905, Tôn Trung Sơn đã nói: “Nếu chỉ đơn nhất dùng biện pháp là mang về những thứ văn minh vật chất của phương Tây như đường sắt, xe lửa, điện thoại, điện báo, mà không tiến hành cải cách chính trị, chỉ có thể mở ra thêm cánh cửa rộng rãi cho tham ô hủ bại biển thủ lừa gạt ở trong nước.”
Kỳ thực, người ta hôm nay cũng không phải không hiểu cái kiến thức cơ bản về việc phải phát triển đồng đều các phương diện, đều biết rằng càng về sau, chi phí sửa lỗi càng cao. Quan trọng chính là dưới bầu không khí của Văn hóa đảng, khuất phục trước sự lạm quyền của Trung Cộng, hùa theo lợi ích của Trung Cộng, cảm thấy phát triển kinh tế chí ít thì có lợi đối với giai đoạn ngắn hạn trước mắt, cũng theo đó nhắm mắt hô hào “hãy phát triển kinh tế lên đã rồi hãy nói”, mà đối với việc sát nhân phóng hoả của Trung Cộng thì lại bỏ mặc không quản.
2) “Ổn định áp đảo hết thảy”
Ổn định áp đảo hết thảy (Ảnh: Epoch Times)
Những người Trung Quốc từng trải qua vận động chính trị, có khát vọng đặc biệt đối với “ổn định”. Cho nên, trong bàn dân trăm họ thì “ổn định áp đảo hết thảy” rất có tiếng vang, đã trở thành khẩu hiệu chủ yếu để duy hộ sự thống trị trong thời kỳ mới của Trung Cộng.
Nói đến Đảng Cộng sản, cái người ta liên tưởng đến là bạo lực cách mạng và loạn động chính trị, làm sao mà Trung Cộng hiện tại lại giương lên ngọn cờ “ổn định” được đây? Nói ra thật mâu thuẫn, kỳ thực, cũng rất giản đơn, chính là Trung Cộng có thể “loạn động” nhân dân, còn một khi nhân dân mà “loạn động” Trung Cộng, thì Trung Cộng phải hô to “ổn định” rồi. Mấy chục năm vừa qua đã [thực hiện] hết cuộc loạn động này đến cuộc loạn động khác một cách không kiêng sợ gì cả, khiến nhân dân bị “loạn động” đến mức chẳng còn cách mưu sinh, mà làn sóng tự do dân chủ và thức tỉnh của nhân dân cuối những năm 80 của thế kỷ trước hưng khởi, xem chừng sắp khiến Trung Cộng bị “loạn động” rớt rồi, lúc ấy Trung Cộng liền hô lớn phải “ổn định”.
Hiển nhiên, cái “ổn định” mà Trung Cộng nói ấy chỉ là ổn định của chính quyền Trung Cộng, mà chẳng phải ổn định của quốc gia và xã tắc. Dưới sự cải cách khập khiễng của Trung Cộng, những người được hưởng đặc quyền đặc lợi, đặc biệt là những người quyền thế không bị chế ước, là mong muốn “ổn định” nhất, để mà vơ vét lợi ích một cách “ổn định”. Do họ duy hộ trật tự đã định [một cách mạnh mẽ] nhất, vì thế sẽ trở thành lực lượng “ổn định” kiên định nhất, nhân tố “ổn định” đáng tin cậy nhất. Cái kiểu “ổn định” này có thể cao hơn lương tri và đạo nghĩa, bàn dân trăm họ là sống hay chết cũng có thể không đếm xỉa. Khi công nhân mỏ quặng bị chết ở dưới hầm, Trung Cộng lấy “ổn định” để che đậy sự oan khuất của người chết; khi những hộ dân bị phá dỡ nhà, bị bức bách phải chống đối, không thể không liều chết kiến nghị lên trên, huyễn tưởng rằng tìm được công đạo, Trung Cộng lại lấy “ổn định” làm chiêu bài mà tiến hành ngăn chặn kiến nghị, thậm chí còn dùng “phá hoại ổn định” để tiến hành bức hại tấn công những người chịu bất công… Ổn định như vậy chỉ là giả thôi, khi bất công và mâu thuẫn xã hội tích luỹ đến mức độ nhất định, thì sẽ giống như núi lửa phun trào vậy. Cái “ổn định [của Đảng] áp đảo hết thảy” mà Đảng Cộng sản tuyên truyền chính là quá trình tích luỹ mâu thuẫn xã hội chờ cho đến lúc bộc phát toàn bộ, một khi khủng hoảng bộc phát, tiền của mà chúng ta hôm nay tích góp được đều sẽ biến thành hư ảo, dân tộc lại sẽ phải chịu cảnh sinh linh lầm than.
Mọi người biết rằng, vận hành của kinh tế có chu kỳ của nó, không thể là “ổn định” được, bất ổn là không thể tránh khỏi. Càng như vậy, càng cần có chế độ hợp lý để làm cơ sở, để đảm bảo sự ổn định của xã hội. Ổn định thật sự, cần trật tự tự do, trật tự pháp trị và trật tự công chính. Nước Anh là quốc gia thực hành dân chủ lập hiến sớm nhất, hơn ba trăm năm qua duy trì được ổn định cao độ, nhân dân tự do, kinh tế phồn vinh. Có mâu thuẫn thì kịp thời khai thông mà không phải cưỡng chế dập xuống, Trung Cộng lợi dụng sự sợ hãi của người ta sau khi trải qua các loại vận động, lợi dụng tâm lý hy vọng ổn định mà đổi trắng thay đen, lấy sự ổn định của sự thống trị của chính nó cưỡng ép lên dân chúng. Kiểu ổn định này không phải là ổn định.
Cái giá mà “ổn định áp đảo hết thảy” của Trung Cộng mang đến, chính là càng khó chuyển [đổi mô] hình hiện tại, chi phí càng cao, rủi ro càng lớn. Ngày nay với mâu thuẫn xã hội càng ngày càng gay gắt, Trung Cộng chỉ biết đến một mực đàn áp các nhân sĩ bảo vệ nhân quyền và những người bất đồng chính kiến, trấn áp các đoàn thể tín ngưỡng, phong toả, lọc bỏ tin tức. Trong quá trình duy hộ đặc quyền đặc lợi của tập đoàn và cá nhân, tội ban đầu của Trung Cộng càng ngày càng lớn, giờ thì không thể kỳ vọng nó có một ngày sẽ đột nhiên nổi hứng, đại phát từ bi, chủ động khai triển cải cách chính trị, thực hành tự do dân chủ. Có thể nói bản thân Trung Cộng mới là nhân tố bất ổn định lớn nhất.
3) “Người khác cũng vậy thôi”
Trung Cộng rất thích dùng “điều kiện mỗi nước” để làm cái cớ. Người khác có dân chủ, Trung Quốc không thể có, người khác có tự do ngôn luận, Trung Quốc không thể có, người khác có quyền lợi tín ngưỡng, Trung Quốc không thể có, vì sao vậy? Bởi vì điều kiện mỗi nước khác nhau. Nhưng mà, nếu như người khác có việc xấu gì đó, lúc này Trung Cộng liền không nói “điều kiện mỗi nước” nữa, mà là nhấn mạnh “giá trị phổ biến”, nói với nhân dân rằng vốn dĩ “trong thiên hạ quạ nào mà chẳng đen”, sau đó liền yêu cầu bàn dân trăm họ thừa nhận, thông cảm, tha thứ cho lỗi lầm của Trung Cộng.
Nói về tham nhũng, nó sẽ nói quốc gia nào mà chẳng có tham nhũng? Nói về trấn áp dân chúng, nó sẽ nói nước Mỹ cũng đã từng dùng súng với dân chúng; nói về dân chủ, nó sẽ nói Ấn Độ làm dân chủ, cũng chẳng làm ra được gì ra trò; nói về diễn biến hoà bình, nó sẽ nói sau khi diễn biến hoà bình thì nước Nga tồi tệ thế nào; nói về tuyển cử, nó sẽ nói tuyển cử của Đài Loan hỗn loạn như thế nào; nói về lãng phí tài nguyên hiện tại, chênh lệch giàu nghèo của Trung Quốc, nó sẽ nói đó là tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản, có quốc gia phát triển nào mà chẳng từng trải qua? Nói về không có tự do ngôn luận, nó nói hãng thông tấn gì đó ở phương Tây chẳng phải bị tập đoàn tài chính khống chế? Nói về bắt người thỉnh nguyện ở Thiên An Môn, nó nói anh thử đến Nhà Trắng mà kháng nghị thử xem, xem xem họ có bắt anh không; nói về nhân quyền của Trung Cộng không tốt, nó bám chắc vào tác phẩm văn chương về việc quân Mỹ ngược đãi tù nhân, nói rằng bản thân nước Mỹ còn không tốt, lấy đâu tư cách nói Trung Cộng?
Những lời lẽ tự thị nhi phi này có lúc so với những thuyết giáo nghiêm túc kia càng có tính mê hoặc hơn. Thế nhưng, bản thân cái kiểu so sánh tương tự này lại là sai lầm, là đánh lừa mê hoặc dân chúng.
Đầu tiên, con người ai cũng đều có nhược điểm của con người. Cho nên, quốc gia nào cũng đều có tham ô, đều có vấn đề về nhân quyền. Chúng tôi không có ý biện hộ cho hành vi của quốc gia khác, chúng tôi chỉ là muốn chỉ ra cái kiểu logic điên đảo thị phi theo kiểu “bởi vì người khác đã giết người, cho nên tôi cũng có thể giết người” của Trung Cộng. Thứ nữa, khi báo cáo tuyên truyền những ví dụ tương tự kia, đối với bối cảnh phát sinh sự việc, quá trình và phương thức xử lý Trung Cộng thông thường đoạn chương thủ nghĩa (cắt lấy những nội dung có lợi), cố ý che đậy những điều bất lợi cho Trung Cộng. Chúng ta biết rằng, xuất hiện vấn đề là một chuyện, còn phản ứng và xử lý vấn đề lại là chuyện khác. Còn Trung Cộng chỉ chú trọng thổi phồng sự phát sinh vấn đề, mà bỏ qua thái độ phản ứng và xử lý vấn đề của các quốc gia dân chủ từ chính phủ, truyền thông đến công chúng.
Sự kiện quân Mỹ ngược đãi tù binh vừa xuất hiện, Trung Cộng liền làm ầm lên, không nằm ngoài ý muốn nói rằng, nhân quyền của nước Mỹ cũng tốt đẹp gì đâu, nhân quyền của Trung Cộng không tốt thì đã sao? Thế nhưng, nếu như chúng ta xét thái độ xử lý của chính phủ Mỹ và Trung Cộng về kiểu sự việc này, thì sẽ phát hiện sự khác biệt rất lớn. Trên thực tế, sau khi xảy ra vụ việc, bản thân nước Mỹ là cả nước chấn động, không chỉ truyền thông nước Mỹ bùng nổ, mà ngay cả tổng thống cũng ngay lập tức phản hồi, lập tức bắt tay điều tra. Tài liệu mà Trung Cộng dẫn ra về căn bản cũng đều là từ các báo cáo công khai của truyền thông nước Mỹ. Mà Trung Cộng đối với việc hành ác về nhân quyền của chính mình, thì lại một mực che đậy từ trên xuống dưới, còn không cho phép người khác được phơi bày.
Đối với việc bắt người thỉnh nguyện ở Thiên An Môn, thậm chí là vụ thảm sát “Lục tứ” (Ngày 4 tháng 6), có một cách nói, chính là anh đến trước Nhà Trắng mà kháng nghị xem họ có bắt anh hay không. Ở đây Trung Cộng đã tung hỏa mù cho một sự khác biệt căn bản. Điều Trung Cộng nói là có thể đăng ký diễu hành biểu tình, nhưng nó căn bản sẽ không phê chuẩn đơn đăng ký, đối với người đã nộp đơn còn phải tấn công báo thù, càng không nói đến việc anh nộp đơn đến Thiên An Môn để biểu tình. Nhưng ở nước Mỹ, dân chúng có thể đăng ký đến trước Nhà Trắng để kháng nghị một cách rất dễ dàng, hơn nữa có một số nhân sĩ kháng nghị chính là cố ý muốn để cho cảnh sát bắt đi để chế tạo hiệu ứng tin tức, cảnh sát Mỹ thông thường sẽ chủ động hỏi người kháng nghị có muốn bị bắt giữ hay không. Căn bản không phải như những gì Trung Cộng tuyên truyền, nào là trước Nhà Trắng ở nước Mỹ không cho phép kháng nghị, cũng sẽ bắt người như Trung Cộng thôi. Ngay cả nếu người kháng nghị có hành vi quá khích, thì cũng phải căn cứ theo chế độ pháp luật mà xử lý.
Còn có người nói rằng nước Mỹ cũng đã từng nổ súng vào dân chúng. Đúng là có, đó là sự kiện thanh toán trợ cấp cho cựu chiến binh tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất vào năm 1932, hơn một vạn cựu chiến binh thất nghiệp đến tập trung ở trước Toà nhà Quốc hội Mỹ. Lúc đó tổng thống Hoover đã hạ lệnh cho quân đội liên bang tiến vào Washington, giải tán dân chúng biểu tình, dẫn đến việc hai người cựu chiến binh bị tử vong, nhiều người bị thương. Căn cứ vào các tài liệu lưu trữ xuất bản công khai của Mỹ như Bách khoa toàn thư, phim tài liệu, sách lịch sử, hồi ký, bọn họ lại không phải là chết do quân đội nước Mỹ, mà là bị cảnh sát ở Washington ngộ sát. Bất luận bản thân sự việc này thị phi thế nào, chúng ta cùng xem xem phản ứng của toàn bộ xã hội Mỹ đối với sự việc này. Đầu tiên, chính phủ Mỹ bị các hãng tin tức truyền thông “quật” cho một cách vô tình, “Thời báo New York” đã báo cáo về quá trình của sự việc bằng loạt bài dài kỳ trên trang nhất, tổng thống Hoover cũng thừa nhận trách nhiệm của mình với nhân dân nước Mỹ. Trong kỳ bầu cử tổng thống nước Mỹ năm đó, nhân dân còn có thể dùng lá phiếu để cho Hoover hạ đài. Bài học về sự huy động quân đội quả rất sâu sắc, trở thành kinh nghiệm tiền nhân cho các tổng thống nước Mỹ về sau này. Năm 1971 ở vùng xung quanh Nhà Trắng đã phát sinh cuộc biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam quy mô lớn, có trợ thủ đến hỏi ý kiến và Nixon đã nói rằng: “Cứ để bọn họ ở đó là được rồi.” Đem ra so sánh, cho đến hôm nay Trung Cộng chưa từng có cách nói nhận lỗi và tự sửa đổi nào đối với sự kiện “Lục tứ”, cơ cấu lập pháp Trung Quốc cũng chưa từng đề xuất về việc tiếp thu bài học trấn áp dân chúng như thế nào, cho đến việc đề xuất việc làm thế nào để tránh khỏi phạm sai lầm tương tự trong tương lai.
Còn có một ví dụ rất phổ biến về việc châm biếm tự do ngôn luận của phương Tây, chính là nói anh viết một bài báo, coi xem báo chí phương Tây có cho anh đăng báo hay không, nếu như không cho đăng, vậy khẳng định chứng minh tự do ngôn luận là giả. Rất nhiều người Trung Quốc bởi vì cái ví dụ kiểu này, dường như nhìn một cái là thấu sự nguỵ giả của tự do ngôn luận ở phương Tây, liền cho rằng việc Trung Cộng khống chế ngôn luận cũng là lẽ thường tình thôi. Kỳ thực điều này là oai lý mà Trung Cộng đã tạo ra cho người ta. Báo chí làm sao có thể cái gì đưa đến cũng cho đăng được? Nếu thật sự như vậy, thì cũng chỉ có thể là vài người đầu tiên gửi đến được đăng, vì số trang xuất bản là có hạn. Trên thực tế tự do ngôn luận lại không phải là nói rằng mỗi hãng thông tấn đều phải làm được “tuyệt đối công chính”. Mỗi hãng thông tấn có lý niệm của mình, đằng sau bọn họ đương nhiên cũng có thế lực chính trị kinh tế của mình, cũng có nghĩa là, một hãng thông tấn là cá thể mà nói, trừ đạo đức nghề nghiệp ra, đương nhiên có ý thích của mình, đối với góc độ bài viết hay báo cáo đều có sự lựa chọn của mình, điều này cũng không phải là giới truyền thông phải che đậy bí mật gì cả. Tự do ngôn luận thể hiện ở hai tầng diện: một là đối với bản thân hãng thông tấn, nó có thể cho đăng một cách tự do nội dung mà nó muốn đăng (nếu đi quá giới hạn thì sẽ giải quyết thông qua con đường pháp luật), hai là đối với độc giả mà nói, tự do của họ thể hiện ở việc họ có thể nhận được tin tức từ kênh truyền thông nào, không kể kênh truyền thông đó có ý kiến ra sao. Bạn vừa có thể đọc báo chí phản Trung Cộng, cũng có thể đọc báo chí thân Trung Cộng, còn có thể đọc báo chí vốn là cơ quan ngôn luận của Trung Cộng, bạn cũng có quyền tự do làm hãng thông tấn riêng để đăng những ý kiến của bạn, đây mới là ý nghĩa thực sự của tự do thông tin. Thước đo quan trọng nhất của tự do tin tức là người nắm quyền có quyền lực khống chế thông tấn bao nhiêu. Ở nước Mỹ, chính phủ thông thường được đặt dưới sự phê bình của truyền thông, thậm chí chính phủ muốn dùng quyền lực để khống chế, cũng không có khả năng. Nhưng tại Trung Quốc, nếu như Đảng Cộng sản không muốn dân chúng xem được tin tức nào đó trên kênh truyền thông, thì có thể dễ dàng phong toả chết cứng. Nếu coi tự do ngôn luận thành việc hãng thông tấn nào cũng đều ắt phải đăng ngôn luận của bạn, thì căn bản là không hiện thực. Dùng việc báo chí của phương Tây đều có lập trường của mình để phủ định tự do ngôn luận, chẳng qua là để tìm cớ thoái thác cho việc Trung Cộng kìm kẹp truyền thông. Bản thân Trung Cộng cũng biết lợi dụng chỗ tốt của tự do ngôn luận ở phương Tây, cho nên Trung Cộng mới cực lực thâm nhập hải ngoại, thao túng khống chế, lại tha hồ phát triển các hãng thông tấn thân cộng của mình.
Tranh chấp xuất hiện trong bầu cử dân chủ ở hải ngoại, thường thường cũng trở thành việc Trung Cộng chế giễu tự do dân chủ, dùng làm tư liệu để khuyên nhân dân ủng hộ độc tài của Trung Cộng. Rất nhiều người cũng vì thế mà tin tưởng cách nói của Trung Cộng, giúp đỡ Trung Cộng duy hộ chuyên chế một đảng. Dân chủ có lẽ không phải biện pháp tốt nhất, nhưng mà, so với đấu tranh trong bóng tối và khả năng mang đến loạn động của Trung Cộng, thì sự minh bạch của dân chủ, sự giám sát của truyền thông và sự độc lập của quân đội, dù sao cũng là một lối thoát có thể tham khảo được. Mọi người đều để ý là, các quốc gia dân chủ bất kể là tuyển cử hay tranh chấp có ghê gớm thế nào, thì quốc gia cũng rất khó bị rơi vào bạo loạn và chiến tranh, đây chính là tác dụng chế ước và cân bằng của dân chủ đối với xã hội, căn bản không phải tai hoạ kiểu như hồng thủy mãnh thú mà Trung Cộng tuyên truyền.
Sau diễn biến hoà bình của nước Nga, Trung Cộng vẫn luôn sợ hãi nước Nga trở nên tốt, cho nên vẫn luôn là tuyên truyền nước Nga khốn khổ thế này thế kia. Nước Nga đương nhiên là có “tình hình đất nước” của bản thân, vấn đề có nhiều, nhưng mà, Trung Cộng lại lấy nước Nga làm phản ví dụ [về một đất nước] sau khi dân chủ hoá để tuyên truyền thì đúng là đang lừa gạt dân chúng. Một vài người Trung Quốc đến hải ngoại nghe được dự trữ ngoại hối của Nga đã tăng vọt so với thời “Quốc tế thứ ba” [3] (báo cáo vào tháng 7 năm 2006), thực sự bất ngờ, nghĩ: Người Nga không phải là ngay cả cơm cũng không đủ ăn sao? Dân chủ ở Ấn Độ cũng vẫn luôn là đối tượng bị Trung Cộng chế giễu, bị ví như tấm gương kinh điển về thất bại của dân chủ. Thế nhưng, từ năm 1991 chính phủ Ấn Độ chính thức bắt đầu cải cách kinh tế cho đến nay, những năm này tỉ lệ tăng trưởng đạt 7%, tỉ lệ tăng trưởng này đã rất gần với mức tăng của Trung Quốc. Ngành công nghiệp tài chính và thị trường vốn của Ấn Độ khá phát triển, hiệu quả kinh doanh khá cao, tỷ lệ nợ xấu ngân hàng thấp hơn 10%. Kết cấu kinh tế của Ấn Độ tương tự với một số quốc gia phát triển, thêm vào đó, Ấn Độ có nhân tài kỹ thuật ưu tú mà chi phí lại thấp, do vậy có người dự đoán rằng Ấn Độ sẽ trở thành “văn phòng của thế giới” trong tương lai. Trên thực tế, Ấn Độ hiện nay đã trở thành một trong những trung tâm nghiên cứu phát triển trọng yếu của thế giới. Chúng tôi không có ý nói tốt cho nước Nga và Ấn Độ, họ đều có vấn đề nghiêm trọng và biến số phát triển của mình, nhưng mà chúng ta không nên bị đánh lạc hướng bởi những tin đưa phiến diện của Trung Cộng, vốn là để duy hộ cho đặc quyền đặc lợi của nó, chứ không muốn toàn diện cải cách, không lặp lại luận điệu của Trung Cộng một cách không suy xét, hay chiểu theo cách nói của Trung Cộng mà suy xét vấn đề. Trên thực tế, Đảng Cộng sản ở nước Nga vẫn là một tổ chức hợp pháp, nếu như nhân dân nước Nga thực sự ưa thích Đảng Cộng sản, thì hoàn toàn có thể bầu trở lại Đảng Cộng sản trong khi tuyển cử. Người ta không chọn đi con đường này, khẳng định là Đảng cộng sản không được hoan nghênh.
Đối với vấn đề phân chia của cải xã hội và bóc lột [sức lao động] mà Trung Quốc gặp phải hiện nay, có người dùng “tích luỹ nguyên thuỷ tư bản” để hình dung, ý nghĩa là trong quá trình hiện đại hoá của thế giới phương Tây cũng đã đi qua giai đoạn như thế này, cho nên, cũng chính là chính thường thôi. Chúng tôi không thể nói sự tích luỹ nguyên thuỷ này là đúng hay sai, chúng tôi chí ít thấy được phương Tây sau khi tích luỹ nguyên thuỷ, tư bản rất nhanh chóng được đưa vào tái sản xuất, đồng thời giai cấp hữu sản đang có yêu cầu rõ ràng về chính trị, tham [dự] chính [trị], làm truyền thông, làm giáo dục, làm từ thiện v.v.. trở thành lực lượng trọng yếu để củng cố trật tự xã hội. Mà tích luỹ nguyên thuỷ dưới sự thống trị của Trung Cộng chính là kiếm tiền, kiếm đến mức không bao giờ dừng lại, sau đó chạy ra ngoài, hưởng lạc, hoàn toàn không có ý tạo ảnh hưởng gì đến chính phủ và Đảng Cộng sản, so với tình huống của phương Tây lúc đó là khác nhau về căn bản, làm sao có thể kỳ vọng vào sự tuần hoàn lành mạnh sau khi “tích luỹ nguyên thuỷ” được?
Còn có một ví dụ tương tự thoạt nghe rất hợp lý: Nếu như anh mà lật đổ quốc gia và chính phủ, anh xem có quốc gia nào mà không trấn áp anh không? Đây là một vấn đề đánh tráo khái niệm rất “xảo diệu”, rất có tính mê hoặc. Kỳ thực, cách nói này bản thân chính là biểu hiện điển hình của việc lẫn lộn khái niệm do Trung Cộng tuyên truyền nhồi nhét lặp đi lặp lại mà thành. “Tội phiến động và lật đổ quốc gia” là tội danh thay thế về sau này mà Trung Cộng dùng để thay cho “tội phản cách mạng” trước kia, tội danh này gồm những hoạt động thông thường liên quan đến nhân quyền và tự do ngôn luận, đều quy thành “phiến động và lật đổ quốc gia”, bản thân nó chính là xâm phạm nhân quyền. Rất nhiều những hành động bị Trung Cộng coi là “phiến động và lật đổ quốc gia”, “tiết lộ bí mật quốc gia” v.v.. thì ở các quốc gia dân chủ ở phương Tây về căn bản lại chính là giành lại những quyền lợi cơ bản được hiến pháp bảo hộ, chính phủ dân chủ làm sao có thể trấn áp đây? Làm báo mắng chửi chính phủ, ở Trung Quốc, đó chính là tội “kinh thiên động địa” lật đổ quốc gia, mà ở phương Tây là việc rất bình thường, căn bản không quan hệ gì với việc lật đổ quốc gia, trừ phi là chứa chấp vũ khí hoặc gây ra bạo động chủ nghĩa khủng bố.
Việc gây ra chiến loạn và khủng bố xảy ra trên thế giới của một số ít tổ chức tôn giáo cực đoan, cũng bị Trung Cộng dùng để phủ định tự do tôn giáo, làm tài liệu giáo dục phản diện mở lối thoát cho Vô Thần luận của Trung Cộng. Ngược lại, đối với việc rất nhiều những chính giáo chính tín đóng vai trò chủ lưu trên thế giới mang lại ý nghĩa chính diện đối với đạo đức xã hội và nhân tính, thì Trung Cộng lại hết sức né tránh. Rất nhiều người không hiểu biết, vì đó mà thuận theo Trung Cộng nhất loạt tiến hành phê phán đối với tín ngưỡng, bài xích những nỗ lực tranh thủ tự do tín ngưỡng của người khác.
Những ví dụ tương tự mang tính ‘tự thị nhi phi’ này còn rất nhiều. Điều đáng châm biếm là, những điều bất lợi đối với Trung Cộng, thì Trung Cộng liền không lấy ví dụ, mà là nhấn mạnh vào tình hình quốc gia và màu sắc của Trung Quốc. “Tình hình quốc gia” đã thành một cây ‘Thượng Phương bảo kiếm’ cho việc Trung Cộng đi ngược lại với trào lưu thế giới. Kỳ thực, cái này không thể học, cái kia không thể học chính là bởi vì đã chạm đến lợi ích vốn có của Đảng Cộng sản mà thôi.
4) “Muốn nói tôi chưa làm tốt, bản thân anh hãy làm tốt trước đã”
“Muốn nói tôi chưa làm tốt, bản thân anh hãy làm tốt trước đã”, đây là lối nói thường dùng khi người ta phản bác sự phê bình của người khác. Kỳ thực không đúng. Trong cuộc sống ai mà chẳng có thể đã từng khoa chân múa tay bình luận khen chê các minh tinh điện ảnh, vận động viên bóng đá, nhưng không yêu cầu bản thân nhất định phải biết biểu diễn, biết đá bóng hơn đối phương.
Thế nhưng, Trung Cộng rất thích dùng câu nói này để giảo biện cho việc hành ác của mình. Khi nước Mỹ phê bình vấn đề nhân quyền của Trung Cộng, phản ứng của Trung Cộng chính là nhân quyền của nước Mỹ cũng có vấn đề, hơn nữa còn xuất bản một báo cáo chỉ trích nhân quyền của nước Mỹ, từ đó coi vấn đề nhân quyền của bản thân cứ như không. Mà báo cáo nhân quyền nước Mỹ do Trung Cộng xuất bản, nội dung của nó đều đến từ các báo cáo công khai của truyền thông nước Mỹ và những vụ án mà chính phủ nước Mỹ chú trọng quan tâm, Trung Cộng vì cái gì mà phải mệt dân tốn tiền làm chuyện này nhiều thế? Chính là vì để hả cái cơn “tức giận”, không phải vì cải thiện nhân quyền của nước Mỹ (thực tế là hy vọng những vụ xì-căng-đan về nhân quyền của nước Mỹ càng nhiều càng tốt, tiện bề cho Trung Cộng viết bài), thực ra là sự cưỡng từ đoạt lý cho tội xâm phạm nhân quyền của nhân dân của mình.
Trung Cộng tự giảo biện cho bản thân mình, cho thấy nó đã xấu đến mức độ nào rồi. Nhưng mà, không ít người dân phổ thông cũng phụ hoạ theo biện giải của Trung Cộng, thậm chí cho rằng lý do mà Trung Cộng trả lời mới thật là “giành lấy vinh quang cho quốc gia”, đây đúng là hồ đồ rồi. Hơn nữa bất kể là nhân quyền của nước Mỹ như thế nào, thì việc nước Mỹ phê bình nhân quyền của Trung Cộng, về mặt khách quan là đang giúp đỡ nhân dân Trung Quốc, bởi vì dưới sự bức hại nhân quyền của Trung Cộng, người bị hại chẳng phải là bản thân nhân dân Trung Quốc sao? Người khác kêu gọi Trung Cộng cải thiện nhân quyền, chẳng phải bản thân nhân dân Trung quốc hưởng lợi sao? Đáng tiếc là, bởi vì ảnh hưởng của Văn hoá đảng, cho rằng phê bình Trung Cộng, chính là phê bình toàn thể nhân dân Trung Quốc, động chạm đến cái tâm tự tôn chủ nghĩa yêu nước chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà bị Trung Cộng nhồi nhét, kết quả là người ta mù quáng duy hộ bộ mặt của Trung Cộng. Có người tìm lý do giúp Trung Cộng, nói phía sau việc người khác phê bình Trung Cộng nhất định có nào là mục đích “không thể nói cho người”, là đang dùng nhân quyền để ép Trung Cộng. Ngay cả như vậy, thì nếu chúng ta không chấp nhận sự thoái thác của Trung Cộng, kiên trì yêu cầu Trung Cộng chấm dứt bức hại nhân dân của chính nó, vậy thì, sau khi Trung Cộng cải thiện hành vi của mình, những người dùng nhân quyền để ép kia chẳng phải không còn cách gì để gây sức ép sao? Như thế, vừa mang lại lợi ích thực sự cho nhân dân Trung Quốc, lại vừa hạ bệ cái mục đích “không thể nói cho người”, một công đôi việc, chẳng phải càng sáng suốt hơn sao?
Cho nên, tư duy bình thường là, bất kể đối phương có làm đến như thế nào, chỉ cần điều chỉ ra là sự thật, thì nên lắng nghe và sửa cho đúng. Có người nói “chỉnh người khác thì hãy chỉnh mình trước”. Đây lại là một cách lý giải sai. Lời này nên là lời nói tự khích lệ của người phê bình, đó là người phê bình có cảnh giới cao, vì để có sức thuyết phục hơn nữa, biểu hiện của việc nghiêm khắc yêu cầu bản thân. Nhưng không thể trở thành lý do cho người bị phê bình để chống lại ý kiến của người khác, chẳng phải có câu “có thì sửa, không thì như là khích lệ” sao?
Khi nguyên thủ nước ngoài muốn đàm luận về vấn đề nhân quyền với Trung Cộng, có một câu trả lời được coi là “cơ trí” rất điển hình, chính là: “Ông làm gì có tư cách nói về nhân quyền của Trung Quốc với chúng tôi, bởi vì một trăm năm trước các ông đã từng xâm phạm nhân quyền của nhân dân Trung Quốc một cách nghiêm trọng.” Khi nói đến Trung Cộng trời không sợ đất không sợ, phá hoại tự nhiên, ô nhiễm môi trường, cũng có cách nói tương tự, chính là “Cường quốc phương Tây chẳng phải cũng chuyển dịch ô nhiễm công nghiệp, thậm chí mang phế thải đến nước khác sao?” Ý muốn nói ở đây là gì? Chính là quốc gia phương Tây đã từng xâm phạm nhân quyền của nhân dân Trung Quốc, vì sao Đảng Cộng sản lại không thể xâm phạm nhân quyền của người dân Trung Quốc nhỉ? Quốc gia phương Tây có thể gây ô nhiễm Trung Quốc, còn Đảng Cộng sản sao lại không thể gây ô nhiễm cho Trung Quốc đây?
Trung Quốc nếu muốn đi theo thế giới, hội nhập với trào lưu thế giới, thì cần lắng nghe ý kiến của xã hội quốc tế, ngoài việc học tập kỹ thuật tiên tiến của người khác, còn phải nghiên cứu chế độ tiên tiến. Vì để hoá giải áp lực về các phương diện như nhân quyền, chủ nghĩa tự do của xã hội quốc tế, Trung Cộng vẫn luôn dùng cách nói “nói tôi chưa làm tốt, bản thân anh hãy làm tốt trước đã” để vô lý cãi cùn, lừa dối dân chúng, bị tổn hại chính là lợi ích lâu dài của quốc gia và dân tộc.
5) “Đối với Đảng Cộng sản phải nhìn nhận cả hai mặt [tốt xấu] của nó”
Đảng Cộng sản tự biết nó đã làm đủ việc xấu rồi, cho nên, hy vọng người ta có thể “thấy được cả hai mặt [tốt xấu] của nó”. Bản thân người dân cũng phụ hoạ theo nói rằng, “Lẽ nào Đảng Cộng sản một chút việc tốt cũng không có?” Loại quan điểm này nghe qua thì như thể có đạo lý, nhưng mục đích và hoàn cảnh của cái “thấy được cả hai mặt [tốt xấu]” này là gì.
Một kẻ phạm tội giết người, giết người đền mạng, chiểu theo pháp luật mà nói, chính là đã có thể định tội cho hắn rồi. Nếu như ở trong toà án yêu cầu đánh giá cả hai mặt tốt xấu, muốn lấy việc đứa trẻ đã từng giúp đỡ các bậc cha chú những việc như đẩy xe, trồng cây để giảm nhẹ tội giết người, thì không thể chấp nhận được.
Nếu lấy quốc gia và chính đảng để làm ví dụ, có thể xem một chút [tình huống] nước Đức trong Thế chiến thứ hai trước kia. Năm 1933, Hitler trở thành nguyên thủ của nước Đức, chính sách kinh tế của ông ta khiến kinh tế của nước Đức liên tục tăng trưởng với tốc độ 100% trong nhiều năm, tỉ lệ thất nghiệp của nước Đức từ 30% giảm xuống 0%, vị thế quốc tế của Đức lúc đó tăng rất cao, bởi vì sau Thế chiến thứ nhất, Đức là nước bại trận, các nước Anh, Pháp đối với Đức hết sức kỳ thị, đòi bồi thường, nhưng sau khi Hitler trở thành nguyên thủ, Đức đã trở thành cường quốc của Châu Âu, đặc biệt là năm 1936 đã tổ chức Olympic thành công ở Berlin, khiến cho rất nhiều quốc gia phải nhìn họ bằng một con mắt khác. Lúc đó Đức đã xây dựng những đường cao tốc mà đều có thể hạ cánh máy bay chiến đấu, rất nhiều tuyến tàu điện ngầm đều được hoàn thành từ thời Hitler, hơn nữa lúc đó Hitler nói muốn khiến mỗi một gia đình ở Đức đều có xe hơi riêng, đấy chính là nguồn gốc của hãng xe hơi Volkswagen của nước Đức. Nhưng bất kể là Hitler về mặt kinh tế đã nỗ lực bao nhiêu, về mặt quân sự thu được thành công bao nhiêu, có người nói ông ta là nhà quân sự hoặc là nhà kinh tế, thì những điều này đều không quan trọng, bởi vì ông ta đã phát động Đại chiến Thế giới lần thứ hai, gây ra thương vong của 90 triệu người trên toàn thế giới, đã gây ra tổn thất 400 tỷ Đô la Mỹ, đồng thời ông ta đã tàn sát tàn khốc người Do Thái trong trại tập trung, có 6 triệu người Do Thái vì ở trong trại tập trung trong Thế chiến thứ hai mà mất đi sinh mệnh. Những việc này đã đủ để xác định bản chất Hitler và Đức Quốc xã rồi, cho nên ngày nay nếu như bạn đến nước Đức, chẳng có ai nói chúng tôi phải tiến hành đánh giá cả hai mặt tốt xấu đối với Hitler và Đức Quốc xã, hơn nữa việc chứa chấp biểu tượng của quốc xã, hoặc sùng bái Hitler cũng đều là vi phạm pháp luật.
Chúng ta lại lấy người Nhật Bản làm một ví dụ. Quân xâm lược Nhật ở Trung Quốc nếu không tính việc giết người, thì nó còn làm nên nhiều đóng góp cho công nghiệp. Đặc biệt là ở ba tỉnh Đông Bắc Trung Quốc nó mở công xưởng, mở công nghiệp khai khoáng, một mạch đến sau khi Trung Cộng đoạt được chính quyền. Khi đó rất nhiều những cơ sở công nghiệp cũ ở đây, đều là cơ sở do người Nhật Bản lưu lại. Ba tỉnh Đông Bắc lúc đó được coi là địa khu có mạng lưới đường sắt phát triển nhất, cũng đều là người Nhật Bản làm. Thậm chí sau vụ thảm sát ở Nam Kinh, ở Trung Quốc, Nhật Bản cũng đã làm rất nhiều hoạt động văn hoá, ví dụ như lễ hội Vu Lan, đến hai bờ sông Tần Hoài ở Nam Kinh xem thử, thì ở đó cũng là thuộc về nơi phồn hoa đô thị, phú quý sung túc, Đại Thượng Hải ấy cũng là nơi có tiệc tùng ca hát mỗi ngày. Như vậy người Trung Quốc nên chăng phải cảm ơn quân xâm lược Nhật đã cống hiến cho sự phát triển kinh tế Trung Quốc? Cũng cần phải đánh giá cả hai mặt tốt xấu? Chúng ta dường như là không có ai nghĩ như vậy, bởi vì người Nhật Bản gây ra vụ thảm sát lớn ở Nam Kinh, có Đơn vị 731 (chuyên nghiên cứu vũ khí sinh học), có chính sách Tam Quang [4], hơn nữa cuộc chiến tranh xâm lược này đã gây ra thương vong của 20 triệu quân dân Trung Quốc, bản thân những sự việc này đã đủ để quyết định bản chất cuộc chiến tranh xâm lược rồi.
Cho nên quay trở lại Đảng Cộng sản, sau khi đoạt được chính quyền, Trung Cộng đã gây ra cái chết bất thường của 80 triệu người Trung Quốc, trong đó 40 triệu người là bị nó thảm sát, 40 triệu người là sống lay lắt rồi chết đói, số lượng người bị giết hại này đã vượt quá Phát-xít Đức mười mấy lần, vượt quá người Nhật Bản bốn lần, hơn nữa, Đảng Cộng sản lại bán đi một triệu km2 lãnh thổ, cho nên chỉ bản thân hai sự việc này thôi, cũng đủ để xác định bản chất của Đảng Cộng sản [Trung Quốc] rồi.
Từ một mặt khác mà nói, bản thân Trung Cộng khi làm các việc nó cũng thông thường không xem xét cả hai mặt tốt xấu, thông thường nó tuyệt đối hóa sự việc. Ví dụ trong cuộc trấn phản của nó, tại sao không xem xét cả hai mặt tốt xấu với những quan binh vốn là Quốc Dân Đảng? Khi bức hại Lưu Thiếu Kỳ, đả đảo Lâm Bưu, Đặng Tiểu Bình, lúc ấy sao không xem xét cả hai mặt tốt xấu đối với họ đi? Ngày nay khi trấn áp Pháp Luân Công, sao không hề nghe được một câu nói tốt, toàn bộ đều là những lời vu khống Pháp Luân Công? Cho nên từ biểu hiện của Trung Cộng mà nói, cái gọi là xem xét cả hai mặt tốt xấu của nó, trên thực tế chỉ là một loại sách lược mà nó dùng, tức tìm một cái cớ để duy trì sự thống trị của bản thân, để mọi người đối với nó có sự thông cảm ở mức độ nhất định.
Nếu như thực sự muốn “xem xét cả hai mặt tốt xấu”, vậy thì, Trung Cộng cũng nên đối diện với quá khứ, đối diện với sai lầm. Cái “xem xét cả hai mặt tốt xấu” mà Trung Cộng nói kỳ thực chỉ là một cách che mắt. Nó trước hết tung hoả mù, nói sự việc gì đó thì luôn nói có tốt có xấu, khiến người ta cảm giác rất là “khách quan”, sau đó, chuyển chủ đề một cái, “xấu” đã không nói nữa, cuối cùng là nói “tốt”. Cho nên, Trung Cộng không để người ta xét lại quá khứ của Trung Cộng một cách triệt để toàn diện, những việc xấu nó làm là không để người ta nói, nếu nói cũng chỉ có thể chiểu theo giọng điệu và thước đo của nó mà nói, hậu quả của việc nói như thế ngược lại là đánh bóng cho Trung Cộng hiện nay. Tại Warsaw, thủ tướng Đức Willy Brandt đã quỳ xuống sám hối trước tội ác với người Do Thái, mà người lãnh đạo của Trung Cộng trước giờ vẫn chưa hề sám hối trước nhân dân toàn quốc. Nếu như ở Đức thì phương châm hiện tại là “tuyệt đối không được lãng quên”, mà ở Trung Quốc lại là “tuyệt đối không được nhớ đến”. Nhưng một xã hội mà lãng quên lịch sử thì có thể tự cứu không?
6) “Quyền no ấm cao hơn nhân quyền”
Đối diện với trào lưu dân chủ trên thế giới, việc hành ác về mặt nhân quyền của Trung Cộng đã trở thành một gánh nặng lớn của nó trên thế giới. Vậy nên, nó sử dụng những nhà văn để bày đặt ra một cái oai lý về nhân quyền: “Quyền no ấm cao hơn nhân quyền”, “Anh đến thử hỏi những người nông dân đói kém ở kia xem, bọn họ là cần cơm ăn hay là cần dân chủ tự do?” Rất nhiều người cũng sẽ dùng những lời này của Trung Cộng để bác bỏ các báo cáo của xã hội quốc tế phê bình nhân quyền của Trung Cộng. Trong sách giáo khoa chính trị của Trung Cộng và trong kỳ thi chính trị hàng năm, đều có đáp án tiêu chuẩn đối với vấn đề này. Trong các trường hợp ngoại giao khác nhau, Trung Cộng thường có vẻ tự tin, mang một bộ mặt đàng hoàng. Người ta lặp đi lặp lại khẩu hiệu này, là có nguyên nhân không tách rời đối với tuyên truyền và nhồi nhét của Trung Cộng.
Kỳ thực, đây là một kiểu nguỵ biện logic gây lẫn lộn, nó coi tự do dân chủ thành một khái niệm trừu tượng, mà lấy điều trừu tượng này để tiến hành so sánh với cái cụ thể là “đồ ăn”, thêm vào ám thị trình độ giáo dục của nông dân thấp, sẽ chỉ muốn thứ cụ thể, mà không hiểu được những điều trừu tượng, từ đó đạt được rằng nông dân đều sẽ “muốn cơm ăn”, thế là, liền phủ định sự quan trọng của tự do dân chủ, kết luận chính là “quyền no ấm còn hơn nhân quyền”.
Chúng ta hơi hoán đổi cách nói một chút, cụ thể hoá tự do dân chủ, những người nông dân sẽ không bị lừa trong trò chơi con chữ của Trung Cộng. Gánh nặng quá lớn, áp lực đến mức nông dân không thể trở mình, ngay cả bản thân Trung Cộng thừa nhận việc miễn giảm gánh nặng cho nông dân là một việc lớn liên quan đến quốc gia. Đối với những người nông dân bụng đói sôi cả lên, nếu như lấy câu chữ trừu tượng “dân chủ nhân quyền” chuyển đổi thành hành vi cụ thể, chúng ta có thể hỏi như thế này: “Nông dân chúng ta bị áp bức đến là khổ, tìm người để phản ánh tình huống của các vị, các vị có muốn hay không?” “Quan chức ức hiếp nông dân, sưu cao thuế nặng nhiều thế, chúng ta bãi bỏ tên bí thư chi bộ xã khốn nạn kia đi, tuyển người chân chính vì chúng ta mà làm thực sự một chút, mọi người có vui lòng hay không?” Đối với đề nghị như thế này, các bác nông dân lẽ nào lại cự tuyệt?
Bụng của người ta đói rồi, nếu mong muốn được giúp đỡ, thì đầu tiên phải phát ra thành tiếng, khiến người ta biết rằng bụng của các vị đói rồi. Chính là nói “quyền ngôn luận” so với “quyền no ấm” còn cấp bách quan trọng hơn. Nhưng mà, tại sao đối với sự giảo biện đảo lộn trật tự của Trung Cộng, người ta lại có thể vui vẻ chấp nhận, bảo sao nghe vậy? Cho dù người ăn không no không có quyền nói, thì hiện tại chẳng phải có rất nhiều người đã ăn đủ no rồi sao? Tại sao không để người ta nói, hay là cho phép bọn họ thay những người ăn không no để nói xem?
Kỳ thực, “quyền no ấm” đối với Trung Cộng mà nói cũng không quan trọng, điều Trung Cộng muốn chỉ là cớ để đối phó cho qua với người bên ngoài, và ngăn chặn tự do ngôn luận mà thôi.
Những ví dụ tự thị nhi phi như trên vẫn còn rất nhiều rất nhiều. Sau khi Văn hoá đảng cải tạo tư tưởng của con người, đích xác khiến người ta trao đổi bàn bạc rất khó khăn, một vấn đề giải quyết rồi, lại có vấn đề khác nổi lên. Nếu muốn tránh được việc dùng tư tưởng của đảng để suy xét vấn đề, tránh được việc dùng ngôn ngữ đảng dạy cho để nói, thì một điểm rất quan trọng, chính là phân tách các vai trò ra. Tách bản thân và đảng ra, vượt qua được cái tâm tình về mẹ đảng, đột phá được cái đường giới hạn “không thể rời khỏi đảng”, không dùng Vô Thần luận, Duy vật luận và triết học đấu tranh, triết học thù hận của đảng để làm cơ sở cho tư tưởng của bản thân. Đối với những quan điểm tự thị nhi phi kia, thử xem xem nếu như bạn phụ hoạ với những quan điểm đó, rốt cuộc thì có lợi cho ai, là cổ động đảng làm việc xấu hay là giám sát đảng, ức chế đảng không để nó làm việc xấu. Trung Cộng có thể biện giải cho mình, nhưng mà, những người dân Trung Quốc không thể vào hùa theo. Khi người khác phê bình Trung Cộng, thì không phải là đang mắng chửi người Trung Quốc. Làm mất mặt Trung Cộng không có nghĩa là làm mất mặt nhân dân Trung Quốc. Có thể khiêu chiến với độc tài, vì sự thật mà hiên ngang bước ra, ấy là dũng sĩ thực sự, là sẽ được người đời tôn kính, kiểu tôn kính này là tôn kính đối với nhân dân Trung Quốc.
- Không tin Thần khiến người ta làm các việc không tính đến hậu quả, việc xấu gì cũng dám làm
Vô Thần luận là một trong những hạch tâm của Văn hoá đảng. Trung Cộng sở dĩ có thể cải tạo được tư tưởng người ta, chính là ở chỗ mà nó đã cắt đứt được Văn hoá truyền thống của dân tộc, dùng văn hóa ngoại lai là chủ nghĩa Mác-Lê để thay thế văn hoá nửa thần của Trung Quốc trong mấy nghìn năm, từ đó thuyết “Vô Thần” làm chủ Đại lục, kính Trời sợ Thần, thiện ác hữu báo đã biến thành mê tín phong kiến và vô tri ngu muội. Ngay cả từ lịch sử nhân loại mà nói, tín ngưỡng đối với Thần và tôn giáo đã duy trì đạo đức của nhân loại ở mức độ cao. Nếu không còn tin tưởng Thần, thì cũng không còn ước thúc về đạo đức, không có ước thúc về đạo đức, ước thúc về pháp luật cũng chỉ có thể là hữu danh vô thực. Từ đó, vì để đạt được mục đích mà có thể không từ thủ đoạn. Không tin vào việc có kiếp này kiếp sau, không tin vào làm việc xấu sẽ có báo ứng, từ đó, làm việc gì cũng đều không tính đến hậu quả, việc xấu gì cũng dám làm.
1) Coi thường sinh mệnh tuỳ ý giết người
Từ sau năm 1949, trong những cuộc vận động chính trị như “trấn phản”, “cải cách ruộng đất”, “tam phản”, “ngũ phản”, “chống cánh hữu”, “cách mạng văn hoá”, v.v.. hết lần này đến lần khác, đã có hàng chục triệu người chết bất thường. Nhưng trong mỗi cuộc vận động, kẻ khởi tác dụng lại không chỉ là bản thân Trung Cộng. Trung Cộng làm các vận động xưa nay là kích động quần chúng đấu với quần chúng. Rất nhiều người bị hại thường là bị Trung Cộng chụp lên cái mũ nào đó, sau đó những người hàng xóm, thân thích thậm chí người nhà sẽ ập vào, khiến người ấy bị áp bức cho chết, đem người còn sống rành rành ra đánh chết. Một mặt những kẻ đánh người kia bản thân quả đúng là bị Trung Cộng lừa gạt, nhưng bọn họ có thể làm được ra những việc ác như thế, lại có quan hệ mật thiết với sự tẩy não của Văn hoá đảng. Một xã hội tin tưởng vào Thiên lý, tin tưởng vào nhân luân nhân tính, không thể có chuyện thương thiên hại lý, mất hết nhân tính trên diện tích lớn như thế này.
Nạn đói lớn sau “Đại nhảy vọt”, số người chết ước chừng 40 triệu người, là nạn đói lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Nạn đói này đã bị Trung Cộng bóp méo thành “ba năm thiên tai tự nhiên”, trên thực tế ba năm ấy thời tiết thuận lợi, những thiên tai tự nhiên như lũ lụt quy mô lớn, hạn hán, bão, sóng thần, động đất, sương giá, đóng băng, mưa đá, châu chấu cũng không hề phát sinh một lần, hoàn toàn là một trường “nhân hoạ” triệt để. Sự thực là, nếu như khi nạn đói xảy ra, có thể mở kho thóc, có thể tìm biện pháp giải quyết, thì số người chết trong nạn đói này đã không hẳn là cao như thế. Nhưng điều khiến cho người ta kinh hoàng hơn là, đối diện với người dân quê bị đói đến mức chỉ còn lay lắt hơi thở, Trung Cộng lại ra lệnh cho quân nhân cưỡng chế phong toả đường xá, mắt nhìn thấy bọn họ chết một cách rõ ràng như vậy mà cũng không cho phép họ bò ra để tìm lối thoát.
“Đánh – đập – cướp” trong Cách mạng Văn hoá, học sinh không ngờ đã dùng thắt lưng để quật chết thầy giáo, con cái dùng gạch đập chết phụ thân. Còn có người sau khi đánh chết đối phương rồi, còn lấy nội tạng ra để ăn.
Trung Quốc cổ đại giảng “nhân mệnh quan Thiên (mệnh người có liên quan đến Trời)”, “cứu một mạng người, hơn xây tháp Phật bảy tầng”. Đối tượng bị chính quyền thanh trừng, vốn dĩ đã đủ đáng thương rồi. Nhưng hiện tại rất nhiều người lại không những thấy chết mà không cứu, còn thêm dầu vào lửa, thậm chí coi giết người làm vui. Chỉ cần Trung Cộng bảo làm gì thì liền làm nấy, cho rằng là cần thiết cho đảng tính, là cần thiết cho chính sách của đảng, hậu quả nào cũng đều có thể không màng. Hậu quả việc Trung Cộng cải tạo tư tưởng đáng sợ cỡ nào, người ta đã có thể thấy được một phần.
Đến tận hôm nay, cái kiểu tư duy Văn hoá đảng coi thường mạng người vẫn không hề theo thời gian mà trôi vào dĩ vãng. Sự bại hoại và bạo chính của Trung Cộng đã sản sinh ra số lượng lớn những đoàn thể bị áp bức trong xã hội. Người giàu người làm quan chức có thể lợi dụng đặc quyền để sống một cuộc sống vung tiền như rác, còn những công nhân bị sa thải lại bởi vì không có tiền chữa bệnh mà tự thiêu chết ở nhà, người mẹ của gia đình bần cùng bởi vì không có cách để trả học phí cho con mà treo cổ tự sát… Nhưng đối diện với cuộc sống khốn khổ của dân chúng ở tầng lớp dưới, rất nhiều người lại không thèm đếm xỉa, không hề quan tâm. Đối với những người dân đáng thương đi phản ánh lên cơ quan cấp trên và yêu cầu giải quyết vấn đề, thì những người được gọi là nhân viên chấp pháp kia lại có thể đánh họ tàn nhẫn, khiến người ta trọng thương tàn phế, chẳng chút mảy may để tâm đến sống chết của người khác. Người gọi là Hà viện sĩ tức Hà Tộ Hưu, có thể đối diện với vô số tai nạn hầm mỏ, mà nói ra câu nói như của lang sói rằng “Ai bảo anh sinh ra ở Trung Quốc?” Thậm chí tướng Chu Thành Hổ của Trung Cộng, còn buông ra câu: có thể hy sinh miền đất từ Tây An trở về phía Đông, không tiếc một nửa nhân khẩu của Trung Quốc để đánh một trận chiến tranh hạt nhân, giống hệt như đúc với giọng điệu của Mao [Trạch Đông] rằng “Trung Quốc mà chết 300 triệu người, thì vẫn còn 300 triệu người”. Chỉ bởi vì không có “giấy tạm trú”, sinh viên đại học là Tôn Chí Cương đã bị bắt nhốt và bị đánh đến chết. Còn trong quá trình bức hại Pháp Luân Công, quá nhiều các học viên Pháp Luân Công ở Đại lục bị tra tấn tàn khốc thậm chí tra tấn đến chết, đến năm 2006 thậm chí còn bại lộ nạn mổ cướp nội tạng sống của các học viên Pháp Luân Công từ năm 2001, quan chức và bác sĩ của Trung Cộng thu lợi khổng lồ từ đó. Mất hết nhân tính như vậy, khiến người ta phải kinh hoàng.
Coi thường sinh mệnh không chỉ biểu hiện ở trong các cuộc vận động chính trị, cũng không chỉ thể hiện ở thái độ của kẻ quyền thế đối với người dân, mà hiện tại trong xã hội giữa người với nhau đều đầy ắp hiện tượng “hiếu dũng đấu ngận” (tham đánh tham giết), tàn sát tuỳ ý. Hiện tại những người trẻ tuổi động một cái nào là chém, là giết, càng bạo lực thì càng tôn sùng. Những vụ án hung sát với thủ đoạn tàn nhẫn trong trường học xảy ra liên miên. Trong xã hội những vụ giết người cướp của, thuê giết người có thể thấy khắp nơi. Quan chức, kẻ nhiều tiền mướn côn đồ giết người, có lúc ngay cả vợ con bạn bè của mình cũng không ngoại lệ.
Khi đạo đức của con người sa đoạ đến cùng hung cực ác như thế này, thì cái xã hội này chẳng phải đã đến bước cực kỳ nguy hiểm rồi sao.
2) Đấu Trời đấu Đất phá hoại tự nhiên
Mấy chục năm vừa rồi, Văn hoá đảng khiến nhân dân Trung Quốc bị nhào nặn thành một tộc người “vô Pháp vô Thiên”, “Đấu Trời đấu Đất”, từ “đại luyện sắt thép”, “vây hồ tạo ruộng”, “bắt chim sẻ một cách điên cuồng”, “chặt phá bừa bãi” lúc đương sơ cho đến việc trả giá bằng môi trường để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao như ngày nay, đều là chỉ quan tâm đến trước mắt, không màng đến phúc lợi của con cháu thế hệ sau, gây hủy hoại to lớn đối với tự nhiên. Tổng Cục Bảo vệ Môi trường Quốc gia Trung Quốc tiết lộ, để sản xuất ra sản phẩm có giá trị 10.000 Đô la Mỹ, nguyên liệu mà Trung Quốc tiêu hao lớn gấp bảy lần Nhật Bản, gấp sáu lần nước Mỹ, thậm chí so với Ấn Độ còn gấp hai lần. Nếu như vấn đề môi trường không thể đạt được cải thiện, kỳ tích kinh tế của Trung Quốc sẽ rất nhanh trở thành quá khứ. Ngân hàng Thế giới nói, trên thế giới có 10 thành phố ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhất, thì Trung Quốc đã chiếm tới 6. Diện tích xói mòn đất của toàn quốc chiếm tới 38% đất, 471 huyện của 18 tỉnh (địa khu), đất canh tác và vườn của gần 400 triệu nhân khẩu nằm trong sự uy hiếp của sa mạc hoá, các chuyên gia ước tính, tương lai Trung Quốc sẽ có 150 triệu nhân khẩu trở thành nạn nhân sinh thái. Ngày 26 tháng 08 năm 2006, Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân Trung Quốc trong một báo cáo kiểm tra môi trường, dùng những cụm từ như “nước ô nhiễm cả”, “mưa toàn axit”, “mức độ ô nhiễm nặng nề đến độ tim đập chân run”, “không thể trì hoãn nữa rồi” để hình dung tính nghiêm trọng của ô nhiễm. Kênh 2 của Đài truyền hình Trung ương từng đưa tin, con số GDP mà Trung Quốc mỗi năm sản xuất ra, có 18% GDP là “bội chi” vào môi trường sinh thái và tài nguyên mà ra. Có một bức ảnh chụp trái đất từ vệ tinh, rất nhiều quốc gia là màu xanh đã phục hồi, mà Trung Quốc thì một dải đất vàng. Rất nhiều cư dân mạng đối diện với việc mẹ tổ quốc bị tàn phá như thế này, khi thấy Trung Cộng còn đang hô hào “quật khởi”, bất giác mà “tuyệt vọng hoàn toàn”.
“Một con sông lớn sóng vỗ, gió thổi hương lúa hai bờ…”, đây từng là ca khúc bài tủ mà Trung Cộng tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, có khảo chứng chỉ ra, con sông lớn đẹp đẽ này chính là nói đến con sông lớn thứ ba của Trung Quốc – sông Hoài, gánh vác một phần sáu dân số toàn quốc. Có một câu nói là “đi hết mọi nơi, cũng không đâu bằng bờ sông Hoài”. Nhưng mà, chỉ vỏn vẹn trong mấy chục năm, sự ô nhiễm của sông Hoài đã kinh tâm động phách, khiến cho câu dân ca này chỉ còn là lịch sử. Nước thải của các xí nghiệp công nghiệp, nguồn nước của nông thôn ô nhiễm và nước thải sinh hoạt của thành phố khiến 60% lưu vực sông Hoài ước chừng kém hơn chất lượng nước loại 5, ô nhiễm do trên mặt đất lan xuống dưới lòng đất, trực tiếp ảnh hưởng cuộc sống của 130 triệu cư dân. Trung Cộng cũng hô hào xử lý nước sông Hoài, nhưng, nếu như nhân tâm không cải biến, thì không có tác dụng. Từ ngày 20 đến 27 tháng 07 năm 2004, sông Hoài bộc phát những khối ô nhiễm lớn nhất trong lịch sử, có những cái như cây nấm màu đen khổng lồ, từ thượng du cuốn xuống, quét qua nghìn dặm của sông Hoài, đám nước ô nhiễm màu đen bao phủ mặt sông kéo dài tới 133 km, tổng lượng vượt quá 500 triệu tấn, cuồn cuộn “sát khí” đổ về hồ Hồng Trạch, thuận thì sống, nghịch thì chết, hắc ám tràn đầy mặt sông, xác tôm cua cá trôi nổi hàng nghìn dặm. “Mười năm xử lý nước ô nhiễm đã trở về ‘điểm xuất phát’, 60 tỷ [nhân dân tệ] chi ra đã đổ sông đổ bể.”
Văn hoá đảng mang đến cho người Trung Quốc tâm thái “không tính đến hậu quả”, biểu hiện ở sự nhiệt tình làm các cuộc vận động lớn, dự án lớn, tốn tiền nhọc dân, không xét đến quy luật tự nhiên. Công trình lớn đến đâu, thì cũng luôn là hãy lên ngựa đã rồi hãy hay, không tính đến hậu quả gì, mang đầy tâm lý biến thái đấu trời đấu đất, thích chuyện lớn hám công to, tới đâu hay tới đó, xuất hiện sự cố gì thì tính là “học phí”, coi tương lai của quốc gia dân tộc như trò đùa con trẻ.
Ở trong những dự án trọng đại như “công trình Tam Hiệp” [5], “điều nước từ Nam lên Bắc”, người ra quyết sách còn dựa vào chính trị làm căn cứ ra quyết sách. Từ sau sự kiện “Lục tứ”, người dân Trung Quốc chán nản, công trình Tam Hiệp được chọn làm công trình để làm phấn chấn lòng người. Liên quan đến việc nên sửa chữa công trình Tam Hiệp hay không, điều người ta nghe được là tin tức một chiều, ngay cả đề cập tới tin tức trái chiều, thì cũng là sớm có đối sách “ứng phó”. Khi những chuyên gia phía phản đối phản bác và thảo luận chi tiết hơn thì người dân không được biết vì đó là cấm địa.
Người có chút kiến thức cũng đều biết, nước muốn lưu động thì phải có độ dốc, giữa đầu và cuối khu vực chứa nước cũng phải có chênh lệch, khu bị ngập sẽ ắt phải là một tuyến dốc. Nhưng mà “tổ di dân” của công trình Tam Hiệp vì để phục vụ việc giảm chi phí di dân của đương cục, mà đề xuất ra tuyến di dân [do] ngập nước cho Tam Hiệp lại là bằng phẳng, tức là nếu như mực nước của đập chứa nước cao tới mức dự định là 175m, thì phía đầu kia tuyến ngập nước ở Trùng Khánh cũng là 175m. Nhưng căn cứ theo độ dốc thuỷ lực 0.7/10000 mà tổ chuyên gia bùn cát của công trình Tam Hiệp tính toán và công bố, thì độ cao mực nước của Trùng Khánh cách đó hơn 600 km sẽ không phải như mức 175m đang nói đến, mà là 217m so với mực nước biển, đến lúc ấy chắc phải “chuẩn bị hậu sự” cho Trùng Khánh thôi. Nếu như muốn giữ Trùng Khánh, thì mực nước không thể trữ đến mức 175m, vậy hiệu quả phát điện và phòng lũ như lúc ban đầu cũng sẽ giảm đi đáng kể. Nhiều quan chức tinh minh từ Trung ương đến địa phương như vậy, còn có nhiều nhà khoa học như vậy, đều biết rằng nước sẽ từ chỗ cao chảy xuống chỗ thấp, hậu quả nghiêm trọng như thế này mà không coi ra gì sao?
Còn nữa, giữa mục tiêu và biện pháp thực thi trong công trình Tam Hiệp có rất nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa phòng lũ và phát điện, mâu thuẫn giữa phòng lũ và vận tải, mâu thuẫn giữa phòng lũ và bài [nước] đục tích [nước] trong, mâu thuẫn giữa phát điện, phòng lũ, vận tải và di dân v.v.. Đập lớn phòng lũ thì phải duy trì mực nước thấp chuẩn bị tích nước, mực nước giảm xuống thấp lại sẽ phải dẫn đến năng lực phát điện và vận tải xuống thấp.
Ngày 17 tháng 05 năm 2000, giáo sư Trương Quang Đẩu – người tư vấn thi công công trình sau khi phát hiện ra sai lầm rằng khả năng phòng lũ của công trình Tam Hiệp không thể đạt được tiêu chuẩn thiết kế, đã kiến nghị với Chủ nhiệm Văn phòng Ủy ban Xây dựng phương án giải quyết vấn đề này: lập tức hạ thấp mực nước khống chế lũ xuống 10m. Nhưng mực nước thấp tất nhiên ảnh hưởng đến vận tải, đồng thời cũng tất yếu ảnh hưởng tới phát điện, vì vậy ông Trương Quang Đẩu chủ trương xây dựng nhà máy nhiệt điện dùng dầu, khí đốt hoặc than để tiến hành điều chỉnh công suất tối đa, Trương nhiều lần cảnh báo: “Nhưng việc này công khai cho xã hội là tuyệt đối không thể.” (‘Thăm dò Tam Hiệp’ – Kỳ thứ 27). Còn nữa, xử lý việc bùn cát ứ tích như thế nào cũng là một trong những nhân tố trọng yếu quyết định thành bại của vùng trữ nước, mà vùng Tam Hiệp dài 200 km là cảng sa thạch tránh gió tốt nhất, khu dự trữ nước Tam Hiệp định chọn dùng phương thức vận hành theo kiểu “khơi trong gạn đục”. Có học giả ở nước ngoài dự đoán rằng “gạn đục” chỉ có hiệu quả ở cự ly rất ngắn trước đập lớn, mà chuyên gia thuỷ lợi nổi tiếng ở đại học Thanh Hoa – giáo sư Hoàng Vạn Lý đã nói chắc như đinh đóng cột rằng một cục đá cũng không thể trôi theo dòng nước chảy ra được! Năm 1957, giáo sư Hoàng bởi vì phản đối việc xây dựng đập lớn Tam Môn Hiệp trên sông Hoàng Hà, đã bị Mao Trạch Đông đích thân “sờ gáy”, bị coi là cánh hữu. Sau nhiều năm, sự thất bại của đập Tam Môn Hiệp đã chứng minh chủ trương của ông là chính xác. Liên quan đến công trình Tam Hiệp, giáo sư Hoàng đã từng viết ba lá thư, trần thuật lý do “công trình Tam Hiệp vĩnh viễn không thể xây”. Ông chỉ muốn xin người lãnh đạo Trung Cộng cho ông thời gian 30 phút, để nói rõ cho họ vấn đề của công trình Tam Hiệp, thuyết phục họ cải biến quyết sách này. Tuy nhiên, ngay cả đến thời gian 30 phút mà ông cũng không có được.
“Điều nước từ Nam lên Bắc” là một công trình cấp thế giới tiếp sau “công trình Tam Hiệp”, mục tiêu chủ yếu là sẽ lấy nước Trường Giang phân thành các tuyến Đông, Trung, Tây mà điều sang các địa khu thiếu nước nghiêm trọng ở Hoa Bắc và Tây Bắc. Công trình tuyến Đông, tuyến Trung đã khởi công từ cuối năm 2002; công trình tuyến Tây theo kế hoạch đến năm 2010 khởi công. Ban đầu, “công trình Tam Hiệp” vẫn còn có Đại hội Đại biểu toàn quốc bỏ phiếu nặc danh một cách tượng trưng, mà hiện tại người ta ngay cả cái việc thủ tục hình thức kia cũng là việc phải né tránh, những người thiết kế công trình tuyến Tây của “Điều nước từ Nam lên Bắc” còn nói rằng, Trung ương tuyên bố khởi công tuyến Đông, tuyến Trung, thì ngụ ý là tuyến Tây cũng khởi công rồi. Từ đầu tháng 07 năm 2001 thẩm tra về “Bản thảo công trình tuyến Tây” của Uỷ ban chuyên gia Bộ thuỷ lợi đã được thông qua, đến tháng 03 năm 2005 mới cho các nhà khoa học tự nhiên, chuyên gia kỹ thuật công trình, nhà kinh tế, nhà khoa học nhân văn sống và công tác dài hạn tại khu điều nước, lần đầu thấy được “bộ mặt thật của Lư Sơn” kia, khiến cho những chuyên gia ở tuyến đầu này vô cùng lo lắng. Công trình tuyến Tây cần lấy nước ở đầu nguồn Trường Giang dẫn đến Hoàng Hà, mà Hoàng Hà lại cao hơn Trường Giang 200m, so với công trình Tam Hiệp không biết là còn khó hơn gấp bao nhiêu lần, rủi ro cũng không biết là nhiều hơn gấp bao nhiêu lần. Có chuyên gia cảm thán “công trình tuyến Tây khiến người ta lo lắng, chẳng biết là cứu Hoàng Hà hay là giết Trường Giang, thậm chí cứu không nổi Hoàng Hà mà còn giết chết Trường Giang?” Kêu gọi Trung Cộng “cáo biệt huyễn tưởng cải tạo, chinh phục tự nhiên”. Nhưng mà, lời của bọn họ khi đến chỗ Trung Cộng vốn lấy quyết sách chính trị làm trung tâm kia, liệu có thể truyền được bao xa đây? Tổng công trình sư thiết kế công trình tuyến Tây vốn cực lực ủng hộ công trình được thi công ngay lập tức, trả lời với chất vấn của ngoại giới rằng “thuận theo việc dự án được thực thi, hết thảy đều sẽ dần dần sáng tỏ”. Những người từng bị “đấu Trời đấu Đất” của Trung Cộng tẩy não, khi động thổ trên sông của mẹ dân tộc Trung Hoa, thái độ cố nhiên cũng là “dò đá mà qua sông”.
Ảnh: Epoch Times
Lão Tử giảng: “Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp Tự nhiên” (người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo Tự nhiên), từ trước đến giờ đều không có chuyện bảo con người đi đấu với Đất, phá hoại tự nhiên. Trong quan niệm truyền thống, con người và tự nhiên không phải là đối kháng lẫn nhau, “Thiên Nhân hợp nhất” nghĩa là cần tồn tại hài hòa cùng Tự nhiên. Khái niệm phát triển bền vững của thời hiện đại thực ra cũng không phải là cái gì mới mẻ, từ trước Công nguyên, đã có lý luận bảo vệ tự nhiên và hợp lý sử dụng tài nguyên thiên nhiên, nó khiến cho Trung Quốc từng có nền nông nghiệp truyền thống phát triển, là nền tảng cho nền văn hóa truyền thống xán lạn. Vì sao hiện tại lại xuất hiện tình huống là môi trường sinh thái và nhân văn bị phá hoại nghiêm trọng? Chính là vì phương thức làm việc không tính gì đến hậu quả này, đi ngược lại quy luật tự nhiên khiến cho núi xanh không còn, nước xanh ngừng chảy. Đặc biệt là hiện giờ những người dưới sự xui khiến của lợi ích kim tiền, mất đi tâm lý kính úy đối với tự nhiên, thì lại càng to gan làm bừa, cái gì cũng dám làm. Khi tự nhiên phản đòn, thì ai đến cứu với dân tộc của Trung Hoa đây?
3) Thói đời xuống dốc không nói chuyện đạo đức
Đạo đức nghề nghiệp của nhân viên công vụ cho đến các ngành nghề khác cũng đi xuống hàng ngày. Khám bác sĩ phải đưa phong bì, con cái nhập học phải giao phong bì, đi kiện cáo phải đưa phong bì, ký giả viết bài cũng nhận phong bì… Tiền bạc đã làm ô nhiễm hết thảy đạo đức nghề nghiệp vốn có: mô thức vận hành của xã hội chính thường đã bị phá hoại; đạo đức nghề nghiệp của các ngành nghề cũ trở nên bại hoại; đạo đức nghề nghiệp của những ngành nghề mới căn bản không có môi trường phát triển lành mạnh, vừa ra đời đã bị ô uế bao vây rồi.
Hãy nói về mức độ làm hàng giả, từ thuốc lá giả, rượu giả, dăm-bông giả, cho đến gạo độc, dầu ăn độc, sữa bột độc, cái gì cũng có. Năm 2003, ở Phụ Dương tỉnh An Huy đã phát sinh sự kiện “sữa bột độc” hại chết trẻ sơ sinh. Những trẻ sơ sinh dùng loại sữa bột này trong thời gian dài, đầu to thân nhỏ, thân thể suy nhược, phản ứng chậm chạp, lại kèm theo lở loét da với diện tích lớn, nội tạng trở nên sưng phù. Chỉ riêng ở thành phố Phụ Dương, trẻ sơ sinh mắc hội chứng suy dinh dưỡng đã có 171 em, tử vong do biến chứng có 13 em. Rất nhiều gia đình nông dân [có con em] mắc phải “bệnh đầu to”, vì để chữa bệnh cho con cái, dường như đã tiêu hết toàn bộ tiền tích luỹ, có gia đình thậm chí bán cả gia sản. Không ít gia đình do không có năng lực kinh tế, buộc phải từ bỏ điều trị, giương mắt nhìn con mình chết. Năm 2006, Sở lương thực thành phố Bắc Kinh đưa những 2.300 tấn gạo cũ độc hại lưu hành trên thị trường, ở trong bao hàm lượng lớn chất gây ung thư, bao gồm aflatoxin – chất hoá học gây ung thư mạnh nhất mà hiện nay phát hiện. Vậy nhưng thương gia vì lợi ích mà bất kể sống chết của người dân, gạo độc công nhiên tiến nhập vào thị trường lan ra toàn quốc, Hồ Nam, Hồ Bắc, Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng Đông, Liêu Ninh, Tứ Xuyên, Hồ Nam đều xuất hiện nhiều tấn gạo độc. Thậm chí còn có kẻ tệ hơn, lấy gạo độc hại trộn với gạo tốt, khiến người dân không cách nào phân biệt được.
Quá khứ có câu kẻ cướp còn có đạo, trộn giả lừa tiền, cũng chỉ là lừa lấy tiền, thiếu đức thế nào đi nữa cũng không thể hạ độc. Mà người ta hiện nay, trừ thiểu số những người trong tâm vẫn còn tôn trọng truyền thống ước thúc đạo đức ra, đa số người là cảm thấy đạo đức, lương tâm chẳng đáng giá bao nhiêu tiền? Vô Thần luận, duy vật luận của Trung Cộng, không nói chuyện thiên lý, không nói chuyện đạo đức, nó giáo dục ra chính là những người chỉ vì tiền, vì lợi ích cá nhân, chuyện xấu gì cũng đều làm ra được.
Ngày 16 tháng 04 năm 2001, Chu Dung Cơ khi thị sát Học viện Kế toán Quốc gia Thượng Hải, đã viết một lời giáo huấn cho trường này là: “Không làm sổ sách giả”. Tình cờ sau đó, trong báo cáo “Báo đô thị Tam Tương” ngày 24 tháng 03 năm 2003, có một số sở giáo dục nơi đó xuất bản “Tám điều nghiêm cấm” về “ba cái loạn” trong quản lý giáo dục, trong đó “nghiêm cấm quấy rối tình dục nữ sinh” là một trong số điều được xếp vào loại thực sự đáng chú ý. Không biết cách giáo huấn và quy định như thế này, là khiến nhân dân yên tâm hay là càng lo lắng hơn.
Khi một xã hội đã xác lập quy tắc của trò chơi, chế độ dân chủ xã hội, thể hệ pháp luật, giám sát của truyền thông và tự do ngôn luận cùng tín ngưỡng tôn giáo đã được kiến lập khá hoàn thiện, đạo đức của dân chúng duy trì ở trình độ nhất định, tâm thái quốc dân khá bình ổn, thì nếu có những thứ loạn bát nháo nữa, nó cũng sẽ ở trong quy tắc; đạo đức và pháp luật về mặt nguyên tắc là có sự ước thúc. Mà [đáng nói là] tại Trung Quốc khi quy tắc chưa được xác lập, thì đã học những thứ loạn bát nháo kia rồi, hơn nữa có khi còn quá hơn, không có ước thúc giới hạn (đến từ) đạo đức, chế độ, tôn giáo, thì có thể tưởng tượng ra nó sẽ mang lại những hậu quả gì.
4) Tình dục tràn lan gây ra khủng hoảng xã hội
Trung Quốc ngày nay, là một thời đại “chê cười kẻ nghèo hèn, không chê cười phường ca kỹ”. Cải cách chính trị của Trung Cộng là cấm địa, ngược lại, “sinh hoạt tình dục” lại trở thành cái được giải phóng triệt để nhất. Quan hệ ngoài hôn nhân, bao bà hai, tình một đêm, trò chơi đổi vợ của giai tầng “cổ áo trắng” [6], sống chung trước hôn nhân, kết hôn trên mạng, kết hôn chớp nhoáng, kết hôn kín, cửa hàng bán đồ người lớn, bán dâm, massage kích thích tình dục, biểu diễn tình dục, múa thoát y, biểu diễn có tính khêu gợi trên tiết mục truyền hình điện ảnh, mỹ nữ gợi cảm lẳng lơ nổi bật trên truyền thông báo chí v.v.., tại xã hội Trung Quốc nói đến chính trị là dân chúng biến sắc mặt (vì sợ hãi), nhưng mặt khác lại đang thực hiện một cuộc “cách mạng tình dục” chưa từng có. Dữ liệu của bộ công an cho thấy, năm 1984 số lượng gái mại dâm bắt giữ là 6.000, đến năm 1999 lên đến con số 450.000, số người bị điều tra tăng vọt lên, nhưng tỉ lệ bắt giữ là 1% hay là 10%, không có ai biết, nhưng tuyệt đối không vượt quá 10%. Trong “làn sóng vàng [tình dục]” bao quát toàn dân này, không chỉ là một thế hệ người trẻ có ý thức đi trước, mà ngay cả người trung lão niên cũng không chịu kém miếng, dường như là muốn lấy lại quãng thời gian bị “lãng phí” trước kia. Câu danh ngôn trên bộ phim “Điện thoại di động” và của Nguyên Phó tỉnh trưởng tỉnh An Huy – Vương Hoài Trung “điều tra gái mại dâm là phá hoại môi trường đầu tư”, chính là khúc xạ của kiểu hiện tượng xã hội này. Nhớ trước kia “toàn quốc trên dưới một mảnh đỏ”, mà thấy thời nay “toàn quốc trên dưới một mảnh vàng [chỉ tình dục]”.
Bao bà hai, nuôi bồ nhí, hối lộ tình dục, đã trở thành một loại “mốt thời thượng” mà quan chức truy cầu, không chỉ không thấy xấu hổ, ngược lại còn thấy vinh dự. Dữ liệu điều tra cho thấy, trong các tham quan ô lại bị điều tra, có 95% có bồ nhí. Vào năm 1999 ở Quảng Châu, Thâm Quyến, Chu Hải công bố trong số 102 vụ án quan tham ô hối lộ, có 100% có bao nuôi “bà hai”. Nhưng đây vẫn chỉ là phần nổi của tảng băng. Một cá nhân Trương Nhị Giang – Bí thư thành uỷ Thiên Môn đã có tới 107 bồ nhí.
Từ chính phủ đến dân chúng, từ nhân vật quyền thế đến người dân phổ thông, đã không còn ước thúc về đạo đức, chỉ cần có điều kiện, thì đều nghĩ làm sao chiếm được “một món lợi” tình dục. Thượng cấp đối với hạ cấp, ông chủ đối với nhân viên, giáo viên đối với học sinh, đạo diễn đối với diễn viên, kẻ mạnh đối với kẻ yếu, xâm phạm về tình dục có thể thấy ở khắp nơi, Thiên lý, nhân luân đều có thể không màng.
Ngay trường học vốn là nơi dạy dỗ con người cũng xuất hiện lặp đi lặp lại thầy giáo cầm thú. Có học sinh bị cưỡng gian có thai, có học sinh bị cưỡng gian lại bị trở thành bà hai, có thầy giáo cưỡng gian không thành liền giết hại học sinh, có kẻ thậm chí còn hạ thủ với bé gái còn hết sức nhỏ tuổi. Truyền thông trong nước năm 2003 báo cáo, ở huyện Đại Túc tỉnh Trùng Khánh có một thầy giáo tiểu học, từ năm 2002 đến năm 2003, trước sau đã thực hiện cưỡng gian 10 em nữ học sinh vị thành niên do chính mình dạy. Ở huyện Long Tây tỉnh Cam Túc có một thầy giáo dạy thể dục lấy cớ giúp học sinh đi cửa sau vào trong trường, đã cưỡng gian 12 em nữ sinh lớp 9, trong đó có hai em học sinh có thai sau khi bị cưỡng gian. Ở xã Hà Khẩu huyện Cẩm Bình tỉnh Quý Châu một thầy giáo 51 tuổi của trường tiểu học Trung Ngưỡng trong thời gian 1 năm rưỡi đã cưỡng gian 12 em nữ học sinh 42 lần, quấy rối tình dục 16 em nữ học sinh 35 lần, chỉ có 3 em là thoát khỏi nanh vuốt của ông ta. Tháng 06 năm 2004, một thầy giáo ở trường tiểu học ở huyện Lâm Hạ trong thời gian một năm rưỡi trước sau đã cưỡng gian và quấy rối tình dục nhiều lần 9 em học sinh cùng học lớp 3, trong đó em bị số lần nhiều nhất là những 10 lần, mà những đứa trẻ này em lớn nhất chưa đầy 15 tuổi, những em khác đều là từ 9 đến 10 tuổi. Ở một trường tiểu học ở thị trấn Nam Hưng thành phố Lôi Châu thuộc thành phố Trạm Giang, hiệu trưởng Lâm Đăng Bình trong vòng 3 tháng đã gây tội ác 7 lần, tổng cộng cưỡng gian 11 em, đều là bé gái vị thành niên ở trong trường, em bị hại nhỏ nhất mới chỉ 10 tuổi… Làm ác đến mức điên cuồng táng tận lương tâm, kinh hoàng như vậy, ngày nay đã không còn là chuyện hiếm thấy.
Về vấn đề tình dục, người Trung Quốc từ thời cổ đều cẩn trọng nghiêm túc, coi việc giữ gìn tiết hạnh rất nặng. Chỉ có sau khi kết hôn thì mới có thể ở cùng nhau. Lúc kết hôn phải bái cha mẹ, bái Thiên địa, có Thiên địa Thần minh chứng giám cho hôn nhân của mình. Ngược lại, nếu như có người bị buộc tội tư thông, dâm loạn, thì ấy là một tội lớn. Cưỡng gian lại càng như giết người phóng hoả, tội không thể tha thứ. “Vạn ác dâm vi thủ”, nhưng người Trung Quốc ngày nay, dường như đã hoàn toàn quên mất lời dạy của người xưa. Cục diện như thế này, không thể không nói là có sự liên quan mật thiết với việc Trung Cộng phá hoại giá trị đạo đức truyền thống, tuyên truyền thuyết vô Thần, thuyết duy vật. Trong Văn hoá đảng của Trung Cộng, quyền lực chính là thuyết minh lớn nhất cho đạo đức. Chỉ cần có quyền, chỉ cần có điều kiện, thì có thể mặc sức làm bừa. Từ cái “cộng sản cộng thê” trong những năm đầu của Đảng Cộng sản, cho đến sự dâm loạn của Mao Trạch Đông, rồi đến sự hủ bại truỵ lạc của quan chức Trung Cộng hiện tại, từ quan lại đến thường dân, hết thảy giá trị truyền thống đều đã bị đảo lộn, hết thảy quan niệm nhân luân gia đình đã bị vứt bỏ rồi. Nhưng lịch sử hết lần này lần khác mách bảo với chúng ta rằng, loạn tình dục thông thường là điềm báo cho sự huỷ diệt của dân tộc. Phát triển tiếp nữa, dân tộc Trung Hoa rốt cuộc kỳ vọng vào một tương lai như thế nào đây?
5) Công nghiệp hoá tình dục, cờ bạc, ma tuý – Quan chức trở thành ô dù bảo hộ
Nghề mại dâm ở Trung Quốc vẫn luôn phi pháp, ngành công nghiệp tình dục ắt phải kết hợp với quân đội cảnh sát mới có thể sinh tồn và phát triển. Có một số công nghiệp tình dục căn bản chính là hợp tác với quân đội cảnh sát mà làm, có người cũng không che giấu điểm này, bởi vì đây là cái bảo đảm an toàn, ví như nơi chiêu đãi của quân đội hoặc công an lại trở thành nơi ra vào nườm nượp. Lợi ích kinh tế liên quan đến ngành phục vụ tình dục càng ngày càng khổng lồ, kể đến như nhân viên chuyên nghiệp ước chừng có 10 triệu người, chi phí liên quan đến mỗi năm ước chừng 1.000 tỷ nhân dân tệ. Nhờ hành động của cảnh sát năm 2000, nhà kinh tế học Trung Quốc Dương Phàm đã ước tính, chi phí của các công nhân nữ thất nghiệp giảm xuống thấp, GDP của Trung Quốc vì vậy mà giảm thiểu 1%. Nghiên cứu viên bán thời gian Vương Tăng Tiên của Sở nghiên cứu ngành Xổ số công ích Trung Quốc thuộc Đại học Bắc Kinh, trong phần “đánh giá sơ bộ” tại hội nghiên cứu đã nói, mỗi năm sẽ có gần 600 tỷ Nhân dân tệ tiền đánh bạc đổ ra nước ngoài và khu vực Hồng Kông – Macao, thị trường ma tuý lên đến 300 tỷ Nhân dân tệ, người hút ma tuý vượt quá 10 triệu người. Đội trưởng chi đội chống ma tuý Thẩm Dương là Trần Hâm, Nguyên Cục trưởng Phân cục Thẩm Hà là Khúc Nguyệt Phúc và Cục trưởng đương nhiệm Trương Bảo Hoa cùng 100 nhân viên cảnh sát khác làm ô dù bảo hộ cho những kẻ buôn ma tuý. Buôn ma tuý và cảnh sát câu kết, thành một đường dây buôn ma túy. Ba thị trường lớn tình dục, đánh bạc, ma tuý gần như quan hệ tương hỗ mà cùng nhau phát triển, do là những người của ba nghề lớn này cần địa vị và bối cảnh đặc thù, bởi vậy, những nhân viên quan trọng trong quân đội cảnh sát đến chính phủ Trung Quốc đã trở thành kẻ hưởng lợi chủ yếu nhất của ba nghề lớn ấy. Bởi vì nếu không có chính phủ cho đến quân đội cảnh sát làm chỗ chống lưng thì ba nghề lớn này ở Trung Quốc cất một bước đi cũng khó. Quan chức tham gia vào tình dục, đánh bạc, ma tuý, trên thế nào dưới như thế, khiến cho người Trung Quốc đã coi hút ma tuý, buôn ma tuý, đánh bạc, mại dâm chơi gái như chuyện thường, thậm chí đích thân tham dự, không cảm thấy bản thân đang làm chuyện xấu.
Khi cảm thụ cuộc sống hiện đại do kinh tế phát triển mang đến, người ta thấy đau lòng nhất chính là sau khi đạo đức xã hội trượt dốc đã đem đến một loạt các vấn đề xã hội. Có người hình dung “đức dục, trí dục, thể dục” trong sách giáo khoa trước kia mà Đảng Cộng sản đã tuyên truyền ngày nay đã phát triển toàn diện, đã sớm biến thành “quyền dục, tiền dục, tình dục” đã khởi lên toàn diện trong thực tiễn xã hội, được mệnh danh là “tiến sĩ ba chơi (chơi quyền, chơi tiền, chơi phụ nữ)”. Hàng giả thịnh hành, sắc tình tràn lan, xã hội đen phát triển sôi động, quan lại thương nhân câu kết, cảnh sát và kẻ cướp cùng một hội, mà khó khăn của người dân thì không có ai quan tâm, sự công chính xã hội càng không được phát triển. Trong xã hội như thế này, không có đạo đức ước thúc ở bên trong, không có dư luận ước thúc từ bên ngoài, không có pháp luật ước thúc từ bên ngoài, mỗi cá nhân đều là người bị hại.
Bản tiếng Hán:
https://www.epochtimes.com/gb/6/10/12/n1484154.htm
Chú thích:
[1] Khuyển nho (Cynieism) một trường phái triết học Hy Lạp cổ đại, còn gọi là trường phái hoài nghi ích kỷ, do Diogenes sáng lập
[2] Bất thức Lư Sơn chân diện mục: Câu thơ trong bài “Đề Tây Lâm bích” của Tô Đông Pha
[3] Đệ Tam Quốc tế còn gọi là Cộng sản Đệ Tam hay Comintern là tổ chức của những người cộng sản, được thành lập vào tháng 03 năm 1919 ở Moskva và giải tán năm 1943, được tái sinh lại năm 1947 và giải tán năm 1956, sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô.
[4] Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, quân xâm lược Nhật Bản đã thực thi ở Trung Quốc chính sách “đốt hết, giết hết, cướp hết”. Chính sách này được biết đến ở Trung Quốc với tên gọi là Tam Quang.
[5] Đập Tam Hiệp chặn Trường Giang (sông dài thứ ba trên thế giới) tại Tam Đẩu Bình, Nghi Xương, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Việc xây dựng bắt đầu vào năm 1994. Đây là đập thủy điện lớn nhất thế giới. Con đập này có 32 tuốc-bin chính, ngoài ra còn có 2 máy phát điện nhỏ hơn (mỗi máy 50 MW) phục vụ cho nhà máy, tổng công suất phát điện của đập là 22.500 MW.
[6] White collar (Anh) hoặc Blanc col (Pháp) – cổ trắng là danh từ dùng chỉ giới công chức, nhân viên có trí thức mặc áo sơ-mi trắng lịch sự. Blue collar (Anh) hoặc Bleu col (Pháp) – cổ xanh là danh từ chỉ giới công nhân, lao động chân tay, thường mặc áo bảo hộ lao động màu xanh dương.
[7] Lục Lâm, bắt nguồn từ khởi nghĩa Lục Lâm thời nhà Tân chống lại sự cai trị của Vương Mãng. Danh từ riêng Lục Lâm sau này trở thành danh từ chung “lục lâm”, chỉ các lực lượng thảo khấu (giặc cướp) chống đối chính quyền.
[8] “Xú lão cửu” (臭老九): chín loại thối tha. Tương tự như “Ngũ hắc loại (黑五类)” (gồm địa chủ, phú nông, chống cách mạng, phần tử có ảnh hưởng xấu, tư sản), Xú lão cửu mà Mao Trạch Đông đưa ra trong Cách mạng Văn hóa ngoài năm thành phần giống như trong “Ngũ hắc loại” còn có thêm bốn thành phần nữa là: người hoạt động trong cánh hữu, kẻ phản bội, gián điệp và trí thức.
[9] Lục nghệ: Lễ (nghi lễ), Nhạc (âm nhạc), Xạ (bắn cung), Ngự (cưỡi ngựa), Thư (đọc sách), Số (toán pháp)
[10] Hạ Vũ (còn được gọi là Đại Vũ) là một vị vua huyền thoại ở Trung Quốc cổ đại nổi tiếng với về việc chống lũ, xác lập chế độ cha truyền con nối ở Trung Quốc bằng cách thành lập nhà Hạ và nhân cách đạo đức ngay thẳng của mình.
Tô Vũ tên thật Tô Tử Khanh, người đất Đỗ Lăng, là một bầy tôi trung của vua Hán Vũ Đế. Thời đó, nhà Hán thường bị giặc Hung Nô ở phương Bắc hay quấy nhiễu, dòm ngó. Năm 100, Hán Vũ Đế sai Tô Vũ đi sứ Đại Nhục Chi để hai nước liên kết đánh Hung Nô. Dọc đường Tô Vũ bị Hung Nô bắt, không giết mà cũng không cho về, đành phải tạm ở lại Hung Nô, chăn cừu sống với một phụ nữ Hung Nô trong núi, được một đứa con, sau trốn thoát, chịu không biết bao nhiêu gian nan, tới được Đại Nhục Chi, nhưng lúc này họ hết muốn trả thù Hung Nô rồi, chỉ muốn sống yên ổn, làm ruộng, trồng trọt. Tô Vũ đành trở về tay không, trên đường lại bị Hung Nô bắt một lần nữa.
Văn Thiên Tường, năm 17 tuổi, ông tham gia kỳ thi Hương ở Lô Lăng, tên đậu đầu bảng. Khi quân nhà Nguyên tràn vào đất Tống, ông ứng “chiếu Cần Vương” dưới cờ vua Tống Cung Đế. Công cuộc kháng chiến chống Nguyên không thành và ông bị quân Nguyên bắt đưa về Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay). Vua Nguyên thấy ông là người có tài và có khí tiết định giam giữ dụ hàng, nhưng ông đã khảng khái nói:”Tôi hiện đang là Tể tướng triều Tống, chỉ lấy cái chết để đền nợ nước, nếu lấy gươm đao dọa nạt, chẳng làm gì được đâu.”
Khuất Nguyên, tên Bình, biệt hiệu Linh Quân (340 TCN – 278 TCN) là một chính trị gia, một nhà thơ yêu nước nổi tiếng của Trung Quốc. Ông là người trong hoàng tộc nước Sở, làm chức Tả Đồ cho Sở Hoài Vương. Ông học rộng, nhớ lâu, giỏi về chính trị, lại có tài văn chương. Lúc đầu ông được vua yêu quý, sau có quan lại ganh tài ông, tìm cách hãm hại.
[11] Trương Chí Tân là một nữ trí thức bị ĐCSTQ tra tấn đến chết trong Đại Cách mạng Văn hóa vì dám nói lên sự thực.