Chương 6: Những ngôn từ của đảng đã trở thành thói quen (phần thượng) (audio)
Mục lục
Lời dẫn: Ngôn ngữ – Linh hồn và ký ức của dân tộc
1. Gọi nhau bằng “đồng chí”
2. Những từ ngữ dập khuôn điển hình của đảng
1) Tinh thần hội nghị, đường lối, nhận thức, báo cáo tư tưởng – các thủ đoạn khống chế tinh thần của tà giáo Trung Cộng
2)Lãnh đạo, đơn vị, tổ chức, hồ sơ, thẩm tra chính trị, hộ khẩu – hình thức tổ chức giám sát chặt chẽ
3)Tuyên truyền, quán triệt, chấp hành, hiệu triệu, chiến sỹ thi đua, cấp trên, đại biểu, ủy ban – kết cấu tổ chức phân chia đẳng cấp nghiêm ngặt
4)Phấn đấu, tự kiểm điểm, đấu tranh, phê bình và tự phê bình – kích động đấu tranh tiếp năng lượng cho “đảng”
3. Trung Cộng dùng ngôn từ của đảng[1] để thiết lập lại cuộc sống của người Trung Quốc
1)Những ngôn từ của đảng quen thuộc đến mức khó có thể nhận ra
2)Chế độ chính trị thiết lập dựa trên ngôn từ của đảng
3)Đời sống tinh thần dưới ảnh hưởng của ngôn từ của đảng
4)Ngôn từ của đảng xâm nhập vào đời sống mỗi cá nhân
========
Lời dẫn: Ngôn ngữ – Linh hồn và ký ức của dân tộc
Ngôn ngữ là công cụ để con người ghi nhớ, trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và giáo dục thế hệ sau. Ngôn ngữ là linh hồn và ký ức của một dân tộc, nó đúc kết những điều mà một dân tộc quan tâm nhất, quan niệm về giá trị, kiến thức về lịch sử, phương thức tư duy, giá trị thẩm mỹ, phong tục xã hội một dân tộc, nó phản ánh mối liên hệ của dân tộc đó với vũ trụ, vị trí của dân tộc đó trên thế giới, toàn bộ hướng đi của phương thức sinh tồn và phát triển của dân tộc đó. Ngôn ngữ vừa là một bộ phận của văn hóa và cũng là công cụ truyền tải văn hóa. Nó là bộ phận thành viên quan trọng nhất trong toàn bộ thể hệ lớn văn hóa.
Trong “Kinh dịch – Hệ từ hạ” có viết rằng: Thời cổ đại Phục Hy trị vì thiên hạ, ông ngẩng lên thì quan sát các hiện tượng về nhật, nguyệt, các vì sao trên trời, cúi xuống thì quan sát quy luật biến hóa của núi sông nước chảy v.v., quan sát màu sắc bên ngoài của chim muông cùng thực vật thích nghi sinh tồn trên mặt đất, gần thì lấy ở thân mình, xa thì lấy ở hiện tượng các sự vật, rồi bắt đầu sáng tạo ra bát quái, dùng để thông suốt với đức của thần minh, dùng để biểu trưng cho tình trạng của vạn sự vạn vật. (“Cổ giả Bào Hy thị chi vương thiên hạ dã, ngưỡng tắc quan tượng vu thiên, phủ tắc quan pháp vu địa, quan điểu thú chi văn dữ địa chi nghi, cận thủ chư thân, viễn thủ chư vật, dư thị sử tác bát quái, dĩ thông thần minh chi đức, dĩ loại vạn vật chi tình”)
Đoạn văn này tuy là giảng về nguồn gốc của bát quái, nhưng chúng ta có thể dùng nó để khái quát về khởi nguồn của ngôn ngữ Trung Quốc. Người xưa đã lấy hình tượng của giới tự nhiên và con người, tạo thành những ký tự vừa trừu tượng vừa cụ thể, tượng trưng cho thiên địa vạn vật, và câu thông với thần linh – đây chính là nguồn gốc của Hán ngữ. Nguồn gốc của Hán ngữ đã quyết định mối quan hệ liên đới xảo diệu (tinh xảo và kỳ diệu) của hình dạng chữ và ngữ âm của nó với vũ trụ, ngôn ngữ trở thành cầu nối giữa ba yếu tố là Thiên – Địa – Nhân.
Ngôn ngữ đã đắp nặn nên diện mạo tinh thần của một dân tộc. Do đời sống tinh thần và vật chất của con người đều được truyền tải bằng ngôn ngữ, nên có thể nói, hình thái của một nền văn hóa chính là hình thái ngôn ngữ của dân tộc đó. Xét trên một ý nghĩa nhất định, thì sáng tạo văn hóa chính là sáng tạo nên một ngôn ngữ riêng biệt; hủy diệt văn hóa, chính là hủy diệt ngôn ngữ dùng để truyền tải nền văn hóa đó.
“Cổ nhân vân, ngôn vi tâm thanh, văn dĩ tải đạo” (Người xưa nói, lời là thanh âm của trái tim, văn để chở đạo). Người xưa dùng tấm lòng thành kính để trân trọng văn tự ngôn ngữ được Trời ban cho. Từ những sách được lưu lại, chúng ta có thể ước lượng mà thấy được phong cách diện mạo ngôn ngữ và tinh thần của người xưa. Từ “Chu Dịch” huyền bí tinh thâm đến “Lão Tử” súc tích, thấu triệt; từ “Kinh Thi” ấm áp nồng hậu đến “Ly Tao” mỹ lệ thanh khiết; từ “Xuân Thu” dùng lời nhẹ mà nói đại nghĩa đến “Sử Ký” hùng tráng thâm sâu ưu nhã; từ kinh Phật dịch sang tiếng Hán một cách giản dị mộc mạc, đến thơ Đường khoáng đạt hoa mỹ, Tống từ hoa lệ uyển chuyển, Nguyên khúc tràn trề sức sống, Hán ngữ đã ghi chép lại trí huệ vĩ đại của dân tộc Trung Hoa, một thế giới nội tâm rộng lớn và không ngừng theo đuổi những giá trị tinh thần.
Một dân tộc tự tôn tất nhiên phải tôn trọng ngôn ngữ của mình, một dân tộc tự trọng tất nhiên phải bảo vệ ngôn ngữ của mình, một dân tộc không ngừng vươn lên tất nhiên phải sử dụng ngôn ngữ của mình một cách đúng đắn.
Thế nhưng, trong tiến trình văn minh của mình, Trung Quốc cận đại đã phải chịu cảnh thù trong giặc ngoài, bị áp bức, sỉ nhục, sự thất bại về quân sự và ngoại giao hết lần này đến lần khác đã khiến cho rất nhiều người dần dần mất đi sự tự tin đối với nền văn minh của Trung Quốc xưa, cũng mất đi sự tự tin vào ngôn ngữ Trung Quốc. Trong các cuộc vận động văn chương bạch thoại, vận động thế giới ngữ, phế bỏ chữ Hán, ném sách cổ vào nhà xí,… phần tử trí thức đề xướng nên những phương thức “cải cách” ngày càng quyết liệt hơn. Những người dân với ý thức khủng hoảng nghiêm trọng không có thời gian để suy nghĩ, thế là một số phương án nhận được sự tán đồng ở mức độ khá lớn của xã hội, và sự thuần chính của Hán ngữ cũng bắt đầu bị ăn mòn. Mặc dù vậy, sự phá hủy và biến dị ngôn ngữ văn tự này chỉ mang tính cục bộ, không có sự can thiệp trên quy mô lớn của chính quyền, vậy nên nó không phải là đòn chí mạng đánh vào ngôn ngữ.
Sau khi cướp đoạt chính quyền, Trung Cộng coi văn hóa Trung Hoa truyền thống là chướng ngại lớn nhất đối với sự thống trị chuyên chế của nó. Với một đất nước đông dân như Trung Quốc, Trung Cộng không thể nào hoàn toàn hất truyền thống sang một bên, rồi làm ra một bộ mới, vì vậy nó chọn cách sống ký sinh, để hủy diệt nền văn hóa dân tộc từ bên trong. Thái độ của nó đối với Hán ngữ cũng không nhổ tận gốc, mà kế thừa hình thức bề mặt, rồi đưa vào đó nội dung văn hóa đảng, khiến cho độc tố văn hóa đảng bám trên thân thể của ngôn ngữ dân tộc. Cách làm này đối với Trung Cộng mà nói, có thể gọi là “bỏ vốn ít nhất, mà thu lợi lớn nhất”. Trung Cộng lợi dụng tất cả các công cụ mà nó có trong tay: các ban tuyên truyền, bộ văn hóa, bộ giáo dục, báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, đoàn thể văn nghệ, các hội nghị liên tiếp mãi không thôi, các văn kiện chất đống như núi, các cuộc vận động chính trị điên cuồng không ngừng nghỉ, để sáng tạo ra số lượng lớn các từ mới và các phương thức biểu đạt đặc thù của văn hóa đảng, rồi dùng từ điển, tự điển, các loại sách tham khảo, sách giáo khoa, các tài liệu quy hoạch lại ngôn ngữ để cố định chúng lại. Việc đơn giản hóa chữ viết khiến cho thế hệ trẻ không thể đọc được các sách cổ, trong khi giới văn nhân của Trung Cộng lại tuyên truyền rằng lãnh đạo đảng đã sáng tạo ra quy phạm ngôn ngữ mới và tiêu chuẩn mỹ thuật mới. Việc giáo dục văn hóa đảng xuyên suốt ngay từ bậc tiểu học đến trung học, đại học đã khiến cho học sinh coi thứ ngôn từ của đảng xấu xa, cứng nhắc, tà ác, đạo đức giả trở thành điều bình thường hiển nhiên. Cho đến ngày nay, những ngôn từ khuôn mẫu của đảng như đồng chí, tuyên truyền, quán triệt, chấp hành, đấu tranh, chiến sỹ thi đua, đại biểu, tinh thần hội nghị, đường lối, nhận thức, lãnh đạo, cấp trên, hiệu triệu, phấn đấu, ủy ban, báo cáo tư tưởng, tự kiểm điểm, phê bình và tự phê bình,… tràn ngập trong các văn kiện, báo chí, sách vở và trong cuộc sống thường nhật của người dân, ngôn từ của đảng nhiều đến che trời đậy đất đã trở thành ngôn ngữ quen thuộc của hàng tỷ người Trung Quốc. Mọi người không ý thức được rằng mỗi giây phút mình đều đang sống trong không gian ngôn ngữ mà Trung Cộng hữu ý tạo nên, họ tưởng rằng ngôn từ của đảng dùng hiện đại là kết quả của sự phát triển tự nhiên của ngôn ngữ dân tộc, họ tưởng rằng mọi người bình thường trong thiên hạ đều nói như thế. Nếu thoát khỏi ngôn ngữ khuôn mẫu của đảng thì người ta thực sự không biết sẽ nói chuyện như thế nào.
Việc Trung Cộng lạm dụng và chiếm dụng chính quyền quốc gia gây tổn thương nghiêm trọng cho văn hóa và ngôn ngữ dân tộc, có thể nói là chưa từng có trong lịch sử. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy. Ngôn ngữ bị văn hóa đảng làm ô nhiễm nghiêm trọng, gây tổn hại nặng nề đến năng lực của người dân trong việc xem xét lại về Trung Cộng, về văn hóa đảng và suy nghĩ cho tương lai dân tộc. Rất nhiều người đã phát hiện ra một hiện tượng kỳ lạ: Người ta dùng ngôn ngữ do Trung Cộng tạo ra để phê phán Trung Cộng, trong những bài viết phẫn nộ lên án Trung Cộng vẫn gọi việc Trung Cộng thành lập chính quyền là “giải phóng”, có người trong “tuyên bố thoái đảng” vẫn nói “ tôi ‘sinh ra ở nước Trung Quốc mới, lớn lên dưới lá cờ đỏ’” khiến cho người ta khó mà hiểu được rốt cuộc anh ta muốn vứt bỏ Trung Cộng hay là cảm kích Trung Cộng. Ngày nay, khi chính quyền Trung Cộng đang lung lay sắp đổ, người dân đang mong ngóng trở về với văn hóa nhân loại bình thường, việc nhận rõ thứ ngôn từ của đảng bám trên ngôn ngữ dân tộc và thanh trừ nó đã trở thành nhiệm vụ không thể trì hoãn.
- Gọi nhau bằng “đồng chí”
Ngôn từ của đảng mà người Trung Quốc quen thuộc nhất là “đồng chí”: Đồng chí Trương, đồng chí Vương, đồng chí cũ, đồng chí nhỏ, đồng chí nam, đồng chí nữ, đồng chí tốt, đồng chí mới, đồng chí phụ huynh, đồng chí lãnh đạo, đồng chí lái xe, đồng chí cục trưởng, thậm chí là đồng chí chủ tịch,… Nó xuất hiện cả trong những lời thoại kinh điển trên phim ảnh và những ngôn từ thường dùng trong cuộc sống: “Tôi đã tìm thấy đồng chí rồi!”, “Các đồng chí hãy xông lên!”, “Đồng chí cách mạng cùng một chiến tuyến”, “đồng chí cách mạng cùng chung chiến hào”, “học tập theo đồng chí nào đó”, “Kính cẩn nghiêng mình trước đồng chí nào đó”, “các đồng chí vất vả quá” … … từ “đồng chí” đã được sử dụng rất phổ biến đến nỗi mọi người đều không cảm thấy rằng nó là ngôn từ của Đảng Cộng sản.
Có người tìm thấy từ “đồng chí” này trong một số sách cổ hoặc thành ngữ Trung Quốc, nhưng từ “đồng chí” mà Đảng Cộng sản phổ biến lại không mang ý nghĩa giống như trong sách cổ Trung Quốc, mà nó là một từ ngoại lai. Theo nghiên cứu, từ “đồng chí” bắt nguồn từ từ “comrade”, thường gặp trong những người theo Chủ nghĩa Xã hội thế kỷ 19. Người Nhật Bản là người đầu tiên dùng từ “đồng chí” để phiên dịch cho từ “comrade”, sau đó từ này đã tiến nhập vào Trung Quốc, dùng để gọi những người có cùng đường, cùng chí hướng với mình (đặc biệt là trong chính trị). Cuối thế kỷ 19, hoàng đế nhà Thanh – Quang Tự khi lên kế hoạch “Chính biến Mậu Tuất”, đã gọi những đại thần thuộc pháp biến pháp là “đồng chí”. Trong Đồng minh hội và Quốc Dân đảng – tổ được chức sáng lập trên cơ sở của Đồng minh hội, từ “đồng chí” cũng được sử dụng khá phổ biến. Nhưng khi sử dụng từ “đồng chí” trong Quốc Dân đảng, nó giống như là một danh từ phổ thông chứ không phải danh xưng. Khi xưng hô thì vẫn dùng “tiên sinh”, “cô”, “tiểu thư”. Ví dụ: “Trương tiên sinh là một đồng chí trung thành đáng tin cậy của chúng ta.”
Năm 1920, Mao Trạch Đông, La Học Toản khi gửi thư cho nhau cũng bắt đầu dùng từ “đồng chí”. Năm 1921, trong cương lĩnh “Đại hội đại biểu lần thứ nhất” của Đảng Cộng sản Trung Quốc có quy định: “Những người thừa nhận cương lĩnh và chính sách của đảng, nguyện trở thành đảng viên trung thành, được đảng viên giới thiệu, không phân giới tính, không phân quốc tịch, đều có thể được thu nạp làm đảng viên, trở thành đồng chí của chúng ta.” Đây là lần đầu tiên Đảng Cộng sản Trung Quốc sử dụng từ “đồng chí” trong văn bản chính thức và đưa vào đó hàm nghĩa mới. Sau năm 1923, trong nội bộ Trung Cộng, Đảng Cộng sản nước ngoài và trong các tổ chức công nhân, việc gọi nhau bằng “đồng chí” đã trở nên phổ biến.
Sau khi Trung Cộng cướp đoạt chính quyền, từ “đồng chí” được phổ biến đến mọi giai tầng, mọi ngõ ngách ở Trung Quốc Đại lục. Năm 1959, Trung Cộng đã ra chỉ thị yêu cầu mọi người phải gọi nhau là “đồng chí”. Trên thực tế, phạm vi sử dụng của từ “đồng chí” đã được mở rộng, nó không chỉ được dùng trong nội bộ đảng mà còn trở thành cách xưng hô quen thuộc giữa những người dân với nhau, và nó được đặt trước họ tên của người ta, thậm chí đặt trước từ chỉ chức danh, nó trở thành một danh xưng được sử dụng thường xuyên nhất. Ví dụ: “đồng chí Trương là người trung thực và đáng tin cậy”, “đồng chí bộ trưởng”, “đồng chí công nhân”, “đồng chí phụ nữ”, v.v..
Những cách xưng hô trong giao tiếp quen thuộc của xã hội truyền thống Trung Quốc đã biến mất, thay vào đó người ta gọi nhau bằng “đồng chí”, nhưng lại mang ý nghĩa là “đồng” tình với “chí” hướng của đảng. “Đồng chí” đã rút sạch thuộc tính tự nhiên của con người, gắn lên cho con người tính chất “tập đoàn”, “đảng phái”, “bang phái”. Cách gọi này có ý lựa chọn rõ ràng, đồng chí nghĩa là thừa nhận tư tưởng của Trung Cộng, tuân theo mục tiêu “cách mạng” của Trung Cộng, phục tùng sự lãnh đạo của đảng, ẩn giấu đằng sau đó là ý đồ khống chế sự tự do của con người. Mọi người cứ tưởng rằng gọi nhau bằng “đồng chí” là thể hiện sự bình đẳng và thân thiết trong “đội ngũ cách mạng”. Nhưng hoàn toàn ngược lại, “đồng chí” khiến cho người ta mất đi ý chí tự do và trở thành công cụ bị thuần phục của đảng, đằng sau sự bình đẳng bề mặt là sự phân biệt đẳng cấp một cách nghiêm ngặt. Điều mà cụm từ “Đồng chí Mao Trạch Đông” phản ánh là quyền uy tuyệt đối, cụm từ “đồng chí Đặng Tiểu Bình” thể hiện địa vị lãnh đạo tất cả, cụm từ “đồng chí Giang Trạch Dân” thể hiện sự thăng tiến vùn vụt của một “nhà âm mưu”. Các cán bộ của Trung Cộng đã bao giờ coi người dân là các “đồng chí” ngang hàng với họ chưa?
Từ xưa, người Trung Quốc rất coi trọng cách xưng hô. Trong “Luận ngữ – Nhan Uyên” có viết rằng, Tế Cảnh Công hỏi Khổng Tử về đạo trị quốc, Khổng Tử nói: “Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con.” (Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử).” “Luận ngữ – Tử Lộ” có viết rằng, một lần Tử Lộ hỏi Khổng Tử: “Nếu vua nước Vệ mời thầy về giúp cai trị nước, thầy làm gì trước?” Khổng Tử nói: “Tất phải bắt đầu với việc ‘chính danh’ trước vậy!” “Danh bất chính tất lời nói không thuận. Lời nói mà không thuận tất việc chẳng thành. Việc chẳng thành thì tất lễ nhạc không hưng thịnh. Lễ nhạc không hưng thịnh thì tất hình phạt chẳng vào khuôn phép, hình phạt mà không vào khuôn phép thì tất dân sẽ mất phương hướng, không biết phải làm sao.”
Trong quan niệm truyền thống, việc đặt và sử dụng tên phù hợp là xuất phát điểm của “vi chính” (trị vì đất nước và xã hội). Cách xưng hô phù hợp (Ngũ luân: Quân thần, phụ tử, huynh đệ, phu thê, bằng hữu) đặt con người vào đúng vị trí trong một mạng lưới các mối quan hệ xã hội hình thành một cách tự nhiên, khiến hành vi của con người có một chuẩn tắc mà tuân theo.
Ngôn ngữ không chỉ là biểu hiện bề ngoài của tư tưởng, ngôn ngữ cũng sáng tạo ra hiện thực vật chất. Trung Cộng không những phá bỏ đi hệ thống cách xưng hô dựa trên cơ sở là các luân lý tự nhiên của xã hội truyền thống, nó cũng phá bỏ đi chế độ tôn pháp (những tôn ti trật tự) truyền thống, khiến cho các cá nhân vốn đã xác định vị trí và có trật tự trong xã hội trở thành thành viên của những bang phái, giáo phái không vị trí và vô trật tự.
Các cách xưng hô phong phú bị đơn giản hóa thành “đồng chí”, thực ra là để phục vụ cho triết học đấu tranh của Đảng Cộng sản. Từ “đồng chí” cũng chỉ trở thành cách xưng hô chủ yếu ở các quốc gia cộng sản tiến hành bạo lực cách mạng. Đặc trưng của cách xưng hô này trong xã hội học là: (1) tính độc lập cá thể kém; (2) quần thể bị phong bế mạnh mẽ; (3) xã hội thiếu bao dung; (4) cảm giác bất an khá cao. Trong từ điển của Trung Cộng, nếu anh không phải là “đồng chí” thì là “kẻ thù”, là “kẻ lạc loài”, sẽ trở thành đối tượng của “chuyên chính dân chủ nhân dân”. Trong cuốn Tuyển tập Mao Trạch Đông do Trung Cộng phát hành, mở đầu có đoạn: “Ai là bằng hữu của chúng ta, ai là kẻ thù của chúng ta, đây là vấn đề trọng yếu nhất của cách mạng.” Những nhân sỹ “đảng phái dân chủ” tiếng tăm do Trung Cộng lập ra là “bằng hữu thân thiết” của Trung Cộng về mặt chính trị, Trung Cộng cũng gọi họ là “đồng chí”. “Đối với đồng chí thì phải nồng nhiệt như mùa xuân, đối với kẻ thù thì phải lạnh lùng như mùa đông”. Mọi người sớm đã quen với cái mùi vị chính trị khô cứng của từ “đồng chí”. Bất kể ai đã từng sống ở Trung Quốc đều biết rằng nếu bị Trung Cộng coi là kẻ thù thì sẽ như thế nào. Giữa thế kỷ trước, dù bạn thuộc “thành phần cao” (xuất thân từ “địa chủ”, “phú nông” hoặc gia đình “tư bản”) hoặc là có một chút vấn đề gì đó về lý lịch, nhưng nếu kẻ vốn vẫn khinh thường bạn từ lâu mà gọi bạn một tiếng “đồng chí” thì bạn có thể cảm động đến nỗi toàn thân run rẩy.
Trong đấu tranh chính trị, kẻ thất bại có thể sẽ đối diện với nguy cơ mất đi tư cách “đồng chí”. Nếu bên thắng cho rằng đối phương chỉ phạm sai lầm, thì cho dù sai lầm nghiêm trọng, kẻ thất bại thông thường vẫn có thể được đứng trong hàng ngũ đảng, hơn nữa tên của họ mặc dù rất ít có cơ hội xuất hiện trên các văn bản chính thức, nhưng trong tình huống không thể tránh khỏi (ví dụ cáo phó) thì trên văn bản chính thức vẫn gọi họ là “đồng chí”. Nếu bên thắng cho rằng tính chất của bên thua còn nghiêm trọng hơn cả phạm sai lầm, thì bên thua thường sẽ bị coi là “phản cách mạng”, bị khai trừ khỏi đảng, từ đó trên văn bản chính thức cũng không được gọi là “đồng chí” nữa. Tương tự, trong chính trị quốc tế của Đảng Cộng sản, có gọi nhau bằng “đồng chí” hay không, phản ánh việc hai nước vẫn cùng một chiến tuyến hay không.
“Đồng chí” điển hình không có ý thức cá nhân, cũng không có ý thức công dân xã hội, không đảm nhận được trách nhiệm của một công dân trong xã hội, điều còn lại chỉ là phục tùng cấp trên trong tổ chức bang phái Trung Cộng. Rất nhiều “đồng chí” [hợp lại với nhau] không thể tạo thành một xã hội theo nghĩa thông thường, chỉ có thể trở thành đoàn thể và tôn giáo. Đoàn thể này dùng biện pháp khống chế để trói buộc nhân tâm và nắm giữ chính quyền quốc gia, biến xã hội thành thể hệ khép kín theo kiểu tà giáo. Như vậy, chúng ta không khó lý giải tại sao trong lịch sử của Trung Cộng, trong khi người ta chen nhau vào hàng ngũ “đồng chí”, họ cũng không ngại gì mà đánh người khác thành kẻ địch, để rồi cuối cùng mọi người đều coi nhau như địch.
Cách xưng hô này thông qua hàng trăm nghìn vạn lần ‘gọi-đáp’ trong thực tiễn, có tác dụng ám thị dẫn dụ mạnh mẽ, càng tô đậm hơn cảm giác thừa nhận của người ta đối với tập đoàn Trung Cộng. “Cửu Bình Cộng sản đảng” đã chỉ ra Trung Cộng là tà giáo hại người, cách xưng hô “đồng chí” chính là cách tập đoàn tà giáo này mê hoặc và khống chế tín đồ. Mỗi lần bạn vô thức đáp lại cách gọi “đồng chí” thì chính là đã thừa nhận thân phận của bạn tại giáo phái này, đã gia tăng sự khống chế vô hình của tà linh đối với bạn.
Sau “Cải cách mở cửa”, mặc dù trong các hội nghị và văn kiện chính thức của đảng, chính phủ và nội bộ quân đội, mọi người vẫn gọi nhau theo cách cũ là “đồng chí”, nhưng ngoài xã hội thì bắt đầu giảm dần. Khi xưng hô trong những trường hợp thông thường người ta không còn dùng từ ngữ mang đầy tính chính trị này nữa, mà dùng từ “ông”, “bà”, “cô” hoặc những từ thể hiện tình cảm như bác tài, ông chủ v.v.. Nhưng trong cuộc sống, việc mọi người vẫn thường hay trêu đùa gọi nhau là “đồng chí” vẫn còn ở khắp mọi nơi. Người mẹ gọi cô con gái không chịu nghe lời là “này đồng chí nhỏ, có nghe lời không”, bạn bè khi tụ tập thường nói “nào các đồng chí, cạn ly”, khi nhờ người khác giúp đỡ thường nói “chúng ta cùng là đồng chí cách mạng mà”. Cách gọi này tưởng chừng không có vấn đề gì, nhưng nó lại là phiên bản thâm sâu của việc ngôn từ của đảng xâm nhập vào cuộc sống của người dân một cách vô thức. Chỉ cần người ta vẫn thích gọi nhau bằng “đồng chí” thì bất kể là có ý thức được hay không, mọi người vẫn chính là đồng lòng với chí hướng của Đảng Cộng sản, là đang duy hộ cho hệ thống ngôn từ của đảng Cộng sản, là đang duy trì chế độ chuyên chế độc tài của Đảng Cộng sản.
- Những từ ngữ điển hình của đảng
Từ “đồng chí” chỉ là một ví dụ về ngôn ngữ quen thuộc của đảng. Ngày nay, hầu hết người Trung Quốc Đại lục từ nhỏ đã sống trong môi trường ngôn ngữ văn hóa đảng, họ đã quen với ngôn từ của đảng đến mức không cảm thấy gì kỳ quặc, cũng không cảm thấy những ngôn từ này có gì không tự nhiên. Nói cách khác, họ còn tưởng rằng mọi người bình thường đều nói như vậy.
Nhưng, sự thật không phải như vậy. Ngôn từ của đảng là do Đảng Cộng sản cố tình tạo ra và truyền bá để xây dựng và duy trì sự thống trị của nó, vì vậy trong những thể chế chính trị không phải Đảng Cộng sản thì người ta không cần thiết sử dụng những từ ngữ này; mà trước khi Đảng Cộng sản xuất hiện, người Trung Quốc cũng chưa từng nói như vậy. Suốt mấy chục năm dưới sự thống trị áp lực cao và bưng bít nhồi nhét, người Trung Quốc đã không chỉ thay đổi phương thức tư duy và thói quen ứng xử, mà còn thay đổi mạnh mẽ hệ thống ngôn ngữ Trung Quốc. Hiện nay, trong ngôn ngữ giao tiếp của người Trung Quốc Đại lục, một phần rất lớn đều là ngôn ngữ đã bị Trung Cộng cải biến hoặc tạo mới, hơn nữa đã trở thành quen miệng.
Dưới đây chúng tôi sẽ phân tích một số ngôn từ rập khuôn điển hình của đảng. Cần nhấn mạnh rằng, những câu từ trong ngôn từ của đảng không nhất định là do Đảng Cộng sản tạo ra, hay là đặc trưng của xã hội do Đảng Cộng sản thống trị. Phàm là những câu từ bị chèn thêm hàm nghĩa đặc định mang màu sắc văn hóa đảng, đồng thời phục vụ cho sự thống trị của Đảng Cộng sản thì đều có thể coi là ngôn từ của đảng. Ví dụ từ “đoàn kết” nghĩa thông thường biểu thị những cá nhân khác nhau cùng kết hợp lại vì một mục tiêu chung, trong các ngôn ngữ khác cũng có từ mang ý nghĩa tương tự. Nhưng trong triết học đấu tranh của văn hóa đảng, từ “đoàn kết” lại bị phủ lên một hàm nghĩa đặc định. Đối tượng được coi là “đoàn kết” với Trung Cộng, về mặt chính trị thì không thuộc vào cái mà Trung Cộng định nghĩa là “người của mình”, nhưng cũng không thuộc vào kẻ thù của Trung Cộng, ví dụ “đảng phái dân chủ” chính là đối tượng “đoàn kết” của Trung Cộng; cụm từ “khối đại đoàn kết” thường dùng trong văn hóa đảng có hàm ý là “một phần rất nhỏ các phần tử XXX” không nằm trong “khối đại đoàn kết”, vì đó là đối tượng bị đả kích, đấu tranh; Khi Trung Cộng tuyên bố hội nghị XXX của đảng là “một đại hội đoàn kết”, điều đó không có nghĩa là trong hội nghị không có ý kiến bất đồng, mà là lời tuyên bố rằng “Trung ương đảng với XXX đứng đầu” là “người thắng lợi” trong lần đấu tranh chính trị này, kẻ bất đồng ý kiến với “Trung ương đảng” sẽ bị thanh trừng, hoặc ít nhất thì trước mắt sẽ không có cơ hội biểu đạt ý kiến bất đồng. Cũng có nghĩa là, “đoàn kết” trong văn hóa đảng đã bị thêm vào hàm nghĩa đặc định phục vụ cho triết học đấu tranh, vì thế mà bị gọi là ngôn từ của đảng.
1) Tinh thần hội nghị, đường lối, nhận thức, báo cáo tư tưởng – các thủ đoạn khống chế tinh thần của tà giáo Trung Cộng
Các cách nói như truyền đạt, lĩnh hội “tinh thần hội nghị XXX”, “thống nhất nhận thức”, “kiên trì đường lối XXX”, đối với người sống trong xã hội bình thường thì đây là điều khó tưởng tượng. Trong một xã hội có nhiều loại người, khác nhau về thân phận địa vị, tư tưởng tín ngưỡng, sở thích, tại sao mọi người phải đi chung một con đường? Tại sao phải thống nhất “nhận thức”, phải truyền đạt, quán triệt tư tưởng XXX? Nho gia thời xưa của Trung Quốc giảng rằng “quân tử hòa nhi bất đồng” (tạm dịch: người quân tử trong giao tiếp thông thường có thể giữ thái độ ôn hòa, nhưng đối với vấn đề cụ thể thì có cách nhìn nhận khác đối phương), Tây phương có câu: “Mọi con đường đều dẫn đến thành Rome”, đều có nghĩa là phải có thái độ bao dung, tôn trọng các ý kiến và lựa chọn khác với mình, như vậy mới tạo nên một xã hội muôn màu muôn vẻ.
Trung Cộng không ngừng thay đổi lập trường nguyên tắc của mình, không đi con đường thẳng, mà lại đi đường vòng, nó không ngừng thay đổi phương hướng, thậm chí nhiều lần quay trở lại con đường cũ. Nhưng tại mỗi thời khắc lịch sử, Trung Cộng luôn tuyên bố rằng nó đại biểu cho “đường lối” chính xác duy nhất. “Con đường đấu tranh” của Trung Cộng luôn là anh chết tôi sống, tàn nhẫn vô tình, bẩn thỉu vô liêm sỉ, người đi theo “đường lối phản động” sẽ bị hạ bệ một cách bi thảm, kẻ có “đường lối đúng đắn” thì vênh váo hống hách, cho rằng không ai bì nổi.
Mỗi khi Trung Cộng kết thúc một cuộc đấu tranh về đường lối, kẻ chiến thắng sẽ tuyên bố kẻ thua cuộc đã phạm phải sai lầm của “chủ nghĩa XXX”, là tả khuynh, hữu khuynh, cánh tả, cánh hữu, bề ngoài là cánh hữu mà thực ra là cánh tả, bề ngoài là cánh tả mà thực ra là cánh hữu v.v.. Tóm lại, chỉ có kẻ thắng cuộc là đi trên “con đường Chủ nghĩa Xã hội”. Đối với những người dân thường, nhiệm vụ của họ là làm “báo cáo tư tưởng”, “đề cao nhận thức” – cuối cùng phải vứt bỏ đi nhân cách độc lập của mình, che giấu suy nghĩ chân thực của mình, thừa nhận kẻ thắng cuộc trong cuộc kiên trì đi theo “đường lối đấu tranh”, thể hiện sự trung thành với đảng.
Trong một cuộc hội nghị thông thường đều sẽ ra một nghị quyết. Bởi vì mọi người đều có nhận thức khác nhau đối với cùng một sự việc, hoặc việc gì cần rất nhiều người cùng phối hợp làm, thì mới cần phải họp mặt. Trong hội nghị mọi người trao đổi để thống nhất ý kiến và lập ra nghị quyết, sau hội nghị thì giải quyết sự việc theo nghị quyết đưa ra. Nếu trong hội nghị không thống nhất được ý kiến, thì cuối cùng cũng phải quyết định bằng cách bỏ phiếu. “Kết quả bỏ phiếu” là sự thống nhất các ý kiến khác nhau. Mặc dù các bên có thể không hoàn toàn hài lòng, nhưng đây cũng là cái giá phải trả tất yếu của các cuộc thảo luận dân chủ, người tham gia hội nghị cũng hiểu rõ điểm này. Còn “tinh thần hội nghị” thì không giống như vậy, nó đã tồn tại từ trước lúc họp hội nghị, nó là ý kiến đại biểu cho ý kiến của “Trung ương đảng”, “tổ chức cấp cao của đảng”, không liên quan gì tới ý kiến của người tham gia hội nghị. Người tham gia chỉ có thể “lĩnh hội” tinh thần hội nghị, “truyền đạt” tinh thần hội nghị, “quán triệt”, “kiên trì” tinh thần hội nghị, chứ tuyệt đối không được nghi ngờ, thách thức, phản đối tinh thần hội nghị. Người tham gia hội nghị chỉ là một con rối bị giật dây, cái dây điều khiển con rối đằng sau chính là Trung Cộng. Nếu mọi người có quan điểm khác nhau thì cần phải “nâng cao nhận thức”, cuối cùng đạt đến “thống nhất tư tưởng” với Trung Cộng, phục tùng theo sự khống chế tinh thần của Trung Cộng.
Trong văn hóa đảng, những từ ngữ này đã liên tục bị cưỡng chế sử dụng để trở thành từ ngữ quen dùng của mọi người, cuối cùng hình thành nên phản xạ có điều kiện trong tiềm thức của mọi người, khiến cho người ta không thể ý thức được rằng mình đã bị biến thành cái vỏ trống rỗng, không còn tư tưởng tự do nữa.
2) Lãnh đạo, đơn vị, tổ chức, hồ sơ, thẩm tra chính trị, hộ khẩu – hình thức tổ chức giám sát chặt chẽ
Ngày nay, trong những từ ngữ thịnh hành của giới trẻ, từ “lãnh đạo” ngày càng được nhiều người dùng để chỉ “bà xã”. Chúng ta thường nghe thấy ai đó khi không quyết định được việc gì nói, “việc này phải về nhà hỏi lãnh đạo đã”. Điều này cho thấy từ “lãnh đạo” trong văn hóa đảng có phạm trù ý nghĩa rất rộng. Trong xã hội bình thường cũng có “lãnh đạo” – như ông chủ, chủ quản, giám đốc, v.v., nhưng lĩnh vực quản lý của họ chỉ trong phạm vi nghiệp vụ, phản đối lãnh đạo thì hậu quả xấu nhất cũng chỉ là bị “sa thải”. Nhưng trong văn hóa đảng, phạm vi quyền hạn của “lãnh đạo” rất lớn – gần như những việc mà “bà xã” có thể quản lý, thì “lãnh đạo” đều muốn nhúng tay vào, lãnh đạo có thể quản cả những việc mà vợ có muốn quản cũng không được, từ việc thăng chức, tăng lương đến việc kết hôn, ly hôn, sinh con, cho con đi học, v.v.. Phản đối “lãnh đạo” thì không chỉ mất miếng ăn, mà còn có thể phải đối mặt với sự “trừng phạt”, không những không ngẩng mặt lên được trước mặt đồng nghiệp, mà còn có thể bị thêm hồ sơ đen vào trong lý lịch, đi đến đâu cũng không thoát khỏi.
“Lãnh đạo” sở dĩ có thể quản lý mọi việc, nguyên nhân chủ yếu là do trong xã hội do Trung Cộng thống trị, mọi người phải sống trong các “đơn vị” suốt một thời gian dài. Tất cả những nhu cầu cơ bản như sinh, lão, bệnh, tử, ăn ở, đi lại, đều phải thông qua “đơn vị” giải quyết, hoặc cần “đơn vị” xác minh. Trong “đơn vị”, mỗi người đều có một cuốn “sổ bí mật ghi chép mọi việc tốt xấu” gọi là “lý lịch”, trong đó ghi rõ lai lịch của một người từ khi là học sinh đã đạt những thành tích gì, quá trình trưởng thành, quá trình bị chụp mũ chính trị cho đến khi được bỏ mũ chính trị, đến “vấn đề tác phong sinh hoạt”… dường như không việc gì là không được ghi chép lại trong lý lịch. Một người nếu muốn “thuyên chuyển” khỏi “đơn vị” nào đó thì phải được “đơn vị” chấp nhận “thuyên chuyển”, nếu “lãnh đạo” của đơn vị đó không chấp nhận thì có thể giữ “lý lịch” không cho đi. Điều khủng khiếp nhất là người bình thường không được phép xem “lý lịch”, vì vậy hồ sơ này vĩnh viễn được giữ bí mật, người ta cũng không biết “lãnh đạo đơn vị” thêm thắt gì vào đó. Còn có một quá trình liên quan chặt chẽ đến “lý lịch” đó là “thẩm tra chính trị”, trong quá trình này “lãnh đạo” có thể chọn đọc và thẩm tra tất cả ghi chép về những hoạt động xã hội trong quá khứ của ai đó, khi cần còn có thể cử người đến các “đơn vị cũ” để xác minh, mục đích là kiểm tra “sự trung thành với đảng” của người đó, trực tiếp quyết định việc người đó có thể được thăng chức hoặc là tham gia các “nhiệm vụ quan trọng” hay không.
Nhờ có “đơn vị”, đảng chỉ cần đảm bảo rằng “lãnh đạo” “đơn vị” nằm dưới sự khống chế của mình thì nó có thể dễ dàng khống chế mỗi cá nhân trong xã hội.
Cơ cấu mà Trung Cộng phái vào các “đơn vị” làm đại diện là tổ chức (ví dụ như đảng bộ, chi bộ…). Trong các bộ phim “chủ đề lịch sử cách mạng”, nhân vật thường vui mừng phát khóc và nói rằng: “Cuối cùng đã tìm thấy tổ chức rồi.” Hiện nay người ta cũng thường nói như vậy khi trêu đùa nhau. “Mất liên lạc với tổ chức” là việc rất đáng sợ. “Có việc gì hãy tìm tổ chức” là cách suy nghĩ giải quyết vấn đề của người Trung Quốc. “Tin vào tổ chức, tin vào đảng”, “tổ chức sẽ đưa ra kết luận”, “tổ chức sẽ làm rõ sự việc” là những câu nói mà người Trung Quốc thường nói để tự an ủi mình. “Có tổ chức” thường đi với “có kế hoạch, có dự kiến”. “Pháp Luân Công có tổ chức” là một tội danh. “Tổ chức” thể hiện quyền lãnh đạo tối cao vô thượng. “Tổ chức đảng” là cơ quan chỉ huy đấu tranh với kẻ thù, là “pháo đài chiến đấu kiên cường”. Cảm giác thuộc về đâu, cảm giác cô độc, cảm giác an toàn, cảm giác không an toàn, cảm giác tin tưởng, cảm giác tuyệt vọng, cảm giác sùng bái, cảm giác tội lỗi v.v. đều bị đảng ép nhập vào trong từ “tổ chức” này. “Đồng chí” là cá thể cấu thành nên “tổ chức”. “Đảng” chia xã hội thành các “đơn vị”, để thuận tiện dùng các “tổ chức” mà phụ thể bám trên cơ thể của xã hội trên mọi phương diện.
Ngoài ra, Trung Cộng còn giám sát xã hội thêm một bước nữa bằng “hộ khẩu”. “Hộ khẩu”, “giấy tạm trú” cũng giống như “thẻ xanh”, “ visa công việc ngắn hạn” ở các nước phương Tây, chỉ khác là đối tượng hạn chế là công dân trong nước. Điều này đúng là sự giễu cợt đối với việc chính quyền Trung Cộng ký kết “tuyên ngôn nhân quyền thế giới.” (Trong đó điều thứ 13 quy định: “Con người có quyền tự do đi lại và cư trú tại quốc gia”)
Tóm lại, một loạt những ngôn từ của đảng như “lãnh đạo”, “đơn vị”, “tổ chức”, “điều lệnh”, “điều động”, “hồ sơ”, “thẩm tra chính trị”, “hộ khẩu”, “giấy tạm trú” v.v. đã phản ánh đặc trưng cuộc sống bị tổ chức tà giáo Trung Cộng giám sát chặt chẽ của người ta. Chúng luôn luôn nhắc nhở mọi người một sự thật cơ bản rằng: Phổ thiên chi hạ, mạc phi đảng thổ (dưới bầu trời này, không đâu không phải là đất của đảng), những ai đứng “ngoài thể chế” thì gần như không còn đường sống. Trong xã hội truyền thống Trung Quốc, người làm cho dù đắc tội với ông chủ, không chịu được thì còn có thể về nhà tự trồng trọt nuôi bản thân; kể cả có đắc tội với hoàng đế cũng vẫn còn có thể mai danh ẩn tích, bỏ trốn đến chân trời góc bể. Nhưng trong xã hội bị Trung Cộng khống chế chặt chẽ, “đơn vị”, “điều động”, “lý lịch”, “hộ khẩu” v.v. khiến cho họ không thể trốn đi đâu được nữa. Mặc dù hiện nay “đơn vị”, “điều động” đã dần dần nhạt nhòa trong cuộc sống của người dân, nhưng mô thức tư duy văn hóa đảng đã thành hình trong đầu não người ta, do vậy tư duy văn hóa đảng sinh ra từ mô thức ấy vẫn như những âm hồn còn lảng vảng, ví dụ “làm trái với đảng sẽ không có kết cục tốt đẹp”, “đảng cho tôi cơm ăn”, “đảng bồi dưỡng tôi trở thành người XXX”, v.v..
3) Tuyên truyền, quán triệt, chấp hành, hiệu triệu, chiến sỹ thi đua, cấp trên, đại biểu, ủy ban – kết cấu tổ chức phân chia đẳng cấp nghiêm ngặt
Xã hội Trung Cộng được xây dựng dựa trên một kết cấu tổ chức có tính thứ bậc nghiêm ngặt. Ở đó, ý chí của “đảng” là tối cao, do vậy chính sách của đảng không cần thảo luận và cũng không thể thảo luận, mọi người chỉ có thể “tuyên truyền”, “quán triệt”, “chấp hành”, hơn nữa “hiểu thì phải chấp hành, không hiểu cũng phải chấp hành, trong khi chấp hành sẽ hiểu rõ hơn”. Một nền văn hóa tốt đẹp được truyền bá bằng cách cảm hóa con người. Trung Cộng mặc dù hô hào rằng nó “phục vụ nhân dân”, “lấy dân làm gốc”, nhưng lại không thực sự vì lợi ích của nhân dân, vì vậy những chính sách nó đưa ra luôn đi ngược lại với lợi ích căn bản của dân, thế nên mới cần phải “tuyên truyền”, “hiệu triệu” người dân làm cái này làm cái kia. Những kẻ tích cực làm theo những lời “tuyên truyền”, “hiệu triệu” của nó, những người không có suy nghĩ độc lập, bọn họ được phong là “chiến sỹ thi đua”, là “đội quân danh dự”, nhưng thực ra chỉ là những “cái đinh ốc” thấp kém nhất trong xã hội phân chia giai tầng này mà thôi. Những lời “tuyên truyền”, “hiệu triệu” của Trung Cộng dùng bạo lực làm hậu thuẫn, dùng lợi ích làm miếng mồi, dùng lừa gạt làm thủ đoạn. Điều cần “quán triệt, chấp hành” là ý chí của Trung Cộng, không có quan hệ gì với việc rốt cuộc nên làm gì. Nếu có thành tích, thì nghĩa là đã nỗ lực “quán triệt, chấp hành” theo đảng, nếu xảy ra sai sót, gây ra sự cố, thì đó là vì không nỗ lực “quán triệt, chấp hành”, hoặc là kết quả của việc “giáo điều hóa phương châm, chính sách của đảng”, dù sao thì phương châm của đảng chính là “chân lý”.
Bên trên “đơn vị” thì có “đơn vị cấp trên”, bên trên lãnh đạo có “lãnh đạo cấp trên”, cuối cùng cao nhất là “Trung ương Đảng”. Văn kiện “trung ương”, “tinh thần hội nghị” truyền đạt xuống đến cấp nào, cấp nào được phép tiếp xúc với những thông tin nước ngoài nào, được hưởng đãi ngộ gì, đều có quy định nghiêm ngặt. “Trung ương Đảng” là hiện thân của “chân lý”, “cấp trên” gần với “Trung ương Đảng” hơn “cấp dưới”, cũng có nghĩa là tiếp cận gần với “chân lý” hơn. Vì thế “cấp trên” xuống thăm “đơn vị cấp dưới” là đại biểu cho ý chí của đảng, gọi là “chỉ đạo”, “thị sát”, “thăm hỏi”, “đơn vị cấp dưới” phải ghi chép “tinh thần buổi nói chuyện”, phải “xin chỉ đạo”, “báo cáo”. Mặc dù có lúc từ thân thiện như “ngài cấp trên” (thủ trưởng), “anh cấp dưới” vẫn được dùng để biểu đạt mối quan hệ thân thiết giữa người với người, nhưng điều này không xóa bỏ được sự phân biệt đẳng cấp giữa họ, giữa “cấp trên” và “cấp dưới” vẫn có sự ràng buộc, đó là “đảng” tối cao.
Trong xã hội bình thường, mọi người thông qua lựa chọn đại biểu nhân dân (ví dụ nghị viên) để tham gia vào quản lý xã hội, phát biểu ý kiến, dân chúng có thể tự do trao đổi ý kiến với đại biểu nhân dân bất cứ lúc nào. Nếu đại biểu được bầu ra không thể làm tròn chức trách khiến mọi người hài lòng thì dân chúng vẫn có thể bãi miễn họ trước nhiệm kỳ. Nhưng trong xã hội phân chia đẳng cấp nghiêm ngặt của Trung Cộng, không phải ai cũng có cơ hội biểu đạt ý kiến của mình, Trung Cộng ở bên trên thường hô to rằng: Tôi đại biểu cho quần chúng nhân dân… nhưng quần chúng nhân dân không hề bảo Trung Cộng làm đại biểu. Trung Cộng tìm những người công khai thể hiện bất đồng ý kiến với nó và tách khỏi “quảng đại quần chúng nhân dân”, gọi họ là “thiểu số” để tấn công gay gắt, sau đó tự tuyên bố rằng mình đại biểu cho “quảng đại quần chúng nhân dân”. Trung Cộng đã “thay mặt nhân dân” giết hại hàng trăm vạn người có tài sản trong “nhân dân” (“địa chủ”, “phú nông”, “nhà tư bản”), cũng “thay mặt nhân dân” bỏ đói hàng chục triệu người không có quyền thế trong “nhân dân” (như “nạn đói” do “Đại nhảy vọt”). Xã hội Trung Quốc cũng có “Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc” làm mặt tiền cho Trung Cộng, nhưng họ không phải được tuyển cử trực tiếp từ dân chúng, mà chức năng chủ yếu của họ là “đại biểu” cho Trung Cộng chứ không phải đại biểu cho nhân dân, mục đích tồn tại thực sự của họ chính là để “giơ tay đồng ý” với các quyết sách của Trung Cộng, tô vẽ cho bản chất độc tài của Trung Cộng.
Trong chế độ đẳng cấp Trung Cộng, các kiểu “Ủy ban xxx”, “Văn phòng xxx” là những thực thể đặc quyền trực tiếp nghe theo mệnh lệnh cấp cao của Trung Cộng. Ví dụ trách nhiệm của “Ủy ban Chính trị và Pháp luật” của Trung Cộng nghe nói là “chỉ đạo và điều hành vĩ mô công tác chính trị và pháp luật”, “thống nhất tư tưởng và hành động chính trị pháp luật của các cơ quan, đảm bảo hoạt động chấp hành pháp luật của các bộ ngành chính trị và pháp luật luôn kiên trì đi theo phương hướng chính trị đúng đắn”. Lẽ ra bộ phận tư pháp, hành pháp vốn chỉ cần thực hiện nghiêm túc theo quy định pháp luật, ở các quốc gia pháp trị đều như vậy, cần gì phải “thống nhất tư tưởng”, “kiên trì phương hướng” về pháp luật? Thực ra chức trách của “Ủy ban Chính trị và Pháp luật” chính là đảm bảo khi hoạt động pháp luật bình thường và “lợi ích của đảng” phát sinh xung đột, thì cơ quan này sẽ kiên trì theo “đảng tính” chứ không phải kiên trì nguyên tắc pháp luật. Tương tự, sự thành lập của “Phòng 610” chính là để vận dụng những thủ đoạn vượt trên pháp luật để đối phó với đoàn thể tín ngưỡng Pháp Luân Công (nếu không chỉ cần công an, viện kiểm sát, tòa án là đủ, hoàn toàn không cần thành lập “Phòng 610”). Một ví dụ nữa là “Ủy ban Kế hoạch hóa Gia đình”, “Phòng Kế hoạch hóa Gia đình” có quyền bắt người, khám nhà, cưỡng chế đặt vòng, phá thai v.v..
Khi người ta đã quen với các ngôn từ của đảng như tuyên truyền, quán triệt, chấp hành, hiệu triệu, chiến sỹ thi đua, cấp trên, đại biểu, ủy ban, thì thực tế đang củng cố cơ cấu tổ chức phân chia đẳng cấp nghiêm ngặt mà Trung Cộng xây dựng, khiến nó dễ dàng từ cái đỉnh của kim tự tháp — “trung ương” mà khống chế toàn xã hội.
4) Phấn đấu, tự kiểm điểm, đấu tranh, phê bình và tự phê bình – kích động đấu tranh tiếp năng lượng cho “đảng”
Trong đoạn kết bộ phim “Thị trấn Phù Dung”, Vương Thu Xá một tên điên vừa đi gõ chiêng vừa hô lớn “Vận động rồi! Vận động rồi!”, cái giọng khàn khàn của hắn vang lên suốt cả ngày khiến người ta phải ghê rợn. Từ “Dẹp nhóm AB” (Một nhóm trong Quốc dân Đảng chủ trương chống lại Trung Cộng, được thành lập vào tháng 12 năm 1926 ở Giang Tây), “Cuộc chỉnh phong tại Diên An”, “Trấn phản”, “Tam phản”, “Ngũ phản”, “Túc phản”, “Phản hữu”, “Vận động Tứ thanh”, “Đại Cách mạng Văn hóa”, “Phê phán Nho giáo”, “Phê phán Lâm Bưu và Khổng Tử”, “Phản kích lật đổ phe cánh hữu”, “chống ô nhiễm tinh thần”, “chống lại tự do hóa của giai cấp tư sản” đến “trấn áp bạo loạn phản cách mạng”, “chống lại Pháp Luân Công”… …Từ ngày Trung Cộng ra đời, nó liên tục tiến hành các cuộc “vận động”, đấu tranh không ngừng nghỉ. Triết học đấu tranh là cơ sở lý luận để Trung Cộng cướp đoạt chính quyền, cũng là phương thức sinh tồn tà giáo của Trung Cộng, không ngừng đấu tranh có thể đào thải những kẻ chống đối, bồi dưỡng “đảng tính” cho các đảng viên, bổ sung năng lượng cho đảng. Những từ ngữ của đảng mà mọi người quen dùng bao gồm: đấu tranh giai cấp, đấu tranh đường lối, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh tinh thần, đấu tranh sống còn, đấu tranh chống kẻ thù, một cuộc đấu tranh…, lực lượng dựa vào để đấu tranh, đối tượng đả kích của đấu tranh, “lấy đấu tranh để giữ đoàn kết thì đoàn kết còn, lấy nhượng bộ để giữ đoàn kết thì đoàn kết vong” (Mao Trạch Đông).
Bị ảnh hưởng bởi ngôn từ của đảng, trong từ vựng của người Trung Quốc ngày nay, người ta đã coi đấu tranh là trạng thái bình thường của xã hội một cách không tự biết. Ví dụ khi người ta phải nỗ lực làm việc gì đó, họ thường quen dùng từ phấn đấu. “Phấn đấu vì …”, “sau bao nhiêu năm phấn đấu, cuối cùng tôi đã….”, “phấn đấu thì sẽ phải có hy sinh, chết người là việc thường xuyên xảy ra.” Người bình thường muốn làm gì chỉ cần nỗ lực là được, sao lại phải đấu? Một ví dụ nữa, trong cách dùng từ của rất nhiều người Trung Quốc, “thỏa hiệp” bị coi là mang nghĩa tiêu cực, nó luôn được liên hệ với “đầu hàng”. Nhưng “thỏa hiệp” vốn là một từ trung tính. Trong các cuộc đàm phán về chính trị, kinh tế, đến cuối cùng thì các bên tham gia đều phải nhượng bộ, thỏa hiệp mới có thể đạt được kết quả đàm phán. Trong xã hội quốc tế, khi hai bên nảy sinh xung đột không chịu nhượng bộ thì kết quả luôn là chiến tranh, đổ máu, vì vậy trước tiên phải cam kết vứt bỏ vũ lực, chủ động nhượng bộ, thỏa hiệp và thúc đẩy hòa giải xung đột, thậm chí bên hòa giải còn được đề cử giải “Nobel hòa bình”. Nhưng trong văn hóa đảng, đấu tranh được coi là “động lực của sự phát triển lịch sử”, còn “thỏa hiệp” là xoa dịu mâu thuẫn, “cản trở” tiến bộ lịch sử, vì vậy nó có ý nghĩa tiêu cực.
“Tự kiểm điểm”, “phê bình và tự phê bình” là thủ đoạn triển khai đấu tranh của Trung Cộng. Phải nói rõ rằng, “tự kiểm điểm”, “tự phê bình” trong văn hóa đảng Trung Cộng hoàn toàn khác với “tự xem lại mình” ở văn hóa truyền thống. Tự xem lại mình là quá trình tự giác tu chính lại bản thân, lấy tiêu chuẩn tham chiếu là giá trị đạo đức truyền thống (trên thực tế cũng là tiêu chuẩn giá trị phổ quát), như “nhân lễ nghĩa trí tín”, mục đích là đạt được sự thăng hoa của tinh thần, sự thuần tịnh của nội tâm, vứt bỏ những dục vọng và truy cầu thấp hèn; còn “tự phê bình” hay “tự kiểm điểm” của Trung Cộng lại là thủ đoạn đấu tranh, mục đích của nó là “thống nhất tư tưởng”, triển khai đấu tranh, thanh trừng kẻ chống đối, tiêu chuẩn tham chiếu là giáo điều của Trung Cộng. Nhưng do giáo điều của Trung Cộng không ngừng cải biến, “hôm nay đảng sẵn sàng vứt bỏ lập trường nguyên tắc đang được tuyên truyền hôm qua, và ngày mai, có thể đảng lại có một lập trường nguyên tắc mới, những việc như vậy đã có quá nhiều” (Trích Cửu Bình Cộng sản đảng), vì vậy tiêu chuẩn tham chiếu này trên thực tế đã trở thành tiêu chuẩn đo lường mức độ trung thành đối với đảng, điều kiện trước tiên là “đảng luôn đúng, phần sai luôn thuộc về mình”. Vì vậy người “tự kiểm điểm” phải bẻ cong quan sát của mình, thông qua tự kiểm điểm để tăng thêm cho mình một tội, lấy đó để thể hiện lòng trung thành đối với đảng một cách tuyệt đối. Mục đích cuối cùng của “tự kiểm điểm”, “tự phê bình” không phải là tự giác làm trong sạch tâm linh của chính mình, mà là làm biến dạng tâm linh của bản thân vì một loại lợi ích chính trị hoặc lợi ích vật chất nào đó, cho đến khi qua được “sự quan sát, khảo nghiệm của đảng”.
Mặt khác, “tự phê bình” trong cuộc sống thực tế là để “phê bình (người khác)”. Tuyệt đại bộ phận người Trung Quốc đều quen với cảnh này: “Trong buổi sinh hoạt đảng”, đảng viên sẽ nói mấy câu kiểu như là bản thân “tính cách nóng vội, phương pháp làm việc cần phải cải tiến”, sau đó sẽ quay ngoắt chủ đề, bắt đầu một tràng lê thê phê bình, công kích người khác. Đặc điểm này là hướng ngoại tìm, kích động người ta công kích lẫn nhau.
Những ngôn từ của đảng này đã làm thay đổi rất nhiều tư tưởng hành vi của con người một cách âm thầm lặng lẽ. Người Trung Quốc đã quen với ngôn từ của đảng, thì tự mình sẽ “lấy đấu tranh làm niềm vui” trong cuộc sống, và lấy những thủ thuật cặn bã kẻ lừa người dối để làm hại người khác trong văn hóa cổ đại Trung Quốc ra để ứng dụng thêm, truyền thống “dĩ hòa vi quý” của Trung Quốc đã bị biến dị thành kiểu “đấu tranh nội bộ” trong văn hóa đảng.
- Trung Cộng dùng ngôn từ của đảng để thiết lập lại cuộc sống của người Trung Quốc
Cái mà chủ nghĩa Marx khởi xướng không phải để hiểu rõ về thế giới, mà là dùng bạo lực để cải biến thế giới. Nhưng khi một kiểu lý luận tự thị nhi phi (như đúng mà là sai) kích động được sự cuồng nhiệt của quần chúng, thì sẽ biến thành hành động bạo lực phi lý tính. Do vậy, từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản luôn rất coi trọng lý luận và ngôn ngữ để truyền đạt lý luận. Có thể nói ngôn ngữ là một trong những công cụ quan trọng nhất của Trung Cộng để “cải biến” thế giới.
Trung Cộng đang “cải thiên hoán địa” ở Trung Quốc, thay đổi hoàn toàn chế độ chính trị và kết cấu xã hội của Trung Quốc, thay đổi tín ngưỡng tinh thần, tập quán tư duy và phương thức sinh hoạt của người Trung Quốc, một trong những công cụ mà nó sử dụng, chính là ngôn ngữ – một mặt diệt trừ ngôn ngữ của con người truyền thống bình thường, mặt khác tạo ra ngôn từ của đảng hoặc biến ngôn ngữ đời thường thành ngôn từ của đảng, sau đó nó lại dùng ngôn từ của đảng để ước chế ép khuôn cuộc sống người Trung Quốc. Trong phần này chúng tôi dùng bảng biểu để liệt kê một số ngôn từ của đảng thường gặp, nhằm giúp bạn đọc có một sự hiểu biết trực quan đối với những ngôn từ của đảng xuất hiện ở mọi nơi mọi lúc mà người ta đã quá quen đến mức không thể nhận ra, sau đó luận bàn sâu hơn về việc ngôn từ của đảng đã thiết lập lại cuộc sống của người Trung Quốc như thế nào từ một số phương diện như thể chế chính trị, đời sống tinh thần và không gian riêng tư cá nhân.
1) Những ngôn từ của đảng quen thuộc đến mức khó mà nhận ra
Trong xã hội Trung Quốc hiện đại, ngôn từ của đảng xuất hiện phổ biến trên mọi lĩnh vực như tín ngưỡng tinh thần, thể chế chính trị, hoạt động kinh tế, đời sống xã hội, tư tưởng tình cảm cá nhân. Thông qua nó, Trung Cộng đã thể hiện đầy đủ bản chất tà giáo, lịch sử bạo lực, các thủ đoạn chính trị trong “vận động trị quốc” và “lưu manh trị quốc”, sự khống chế nghiêm ngặt đối với xã hội và tư tưởng con người, chế độ phân chia đẳng cấp nghiêm ngặt, bóp méo và xuyên tạc sự thật lịch sử, bôi nhọ và vu tội cho các tín ngưỡng chân chính và xã hội nhân loại bình thường. Ngôn từ của đảng đã tạo nên một hệ thống hoàn chỉnh, bao trùm mọi phương diện cuộc sống của người Trung Quốc.
Hãy xem bảng dưới đây (Bảng 1):
Danh xưng | Đồng chí, lãnh đạo, cấp trên, bí thư, thư ký, chiến hữu, ái nhân |
Thời kỳ lịch sử | Giải phóng, dựng nước, trước giải phóng, sau giải phóng, xã hội cũ, Trung Quốc mới, Xã hội Nô lệ, Xã hội Phong kiến, nửa Phong kiến nửa Thực dân, chiến tranh giải phóng, ba năm thiên tai, Đại Cách mạng Văn hóa, những năm tháng hoang đường, cải cách mở cửa, thời kỳ đổi mới, từ hội nghị lần thứ 3 đại hội toàn quốc lần thứ 11 cho đến nay, giao mùa xuân hạ năm 1989, mùa xuân năm 1992 |
Xuất thân gia đình | Bần nông, trung nông, phú nông, địa chủ; lũ cẩu tể (chó má); hắc ngũ loại (năm thành phần xấu xa); hồng ngũ loại (năm thành phần cách mạng), xuất thân tốt, duy thành phần luận; cha anh hùng, con hảo hán; xuất thân gia đình thuộc giai cấp bóc lột; lấy xuất thân giai cấp làm tiêu chuẩn đánh giá tốt xấu |
Thân phận cá nhân | Đảng viên, đoàn viên, đội viên, quần chúng, phần tử tích cực, đảng phái dân chủ, nhân sỹ yêu nước không đảng phái |
Định vị cá nhân | Tôi cống hiến cả cuộc đời cho đảng, tôi lớn lên ở nước Trung Quốc mới; tôi là thế hệ lớn lên dưới lá cờ đỏ; tôi được đảng một tay bồi dưỡng trưởng thành |
Cấp bậc thâm niên | Lão thành cách mạng, hồng quân cũ, thủ trưởng, cấp trên, anh ta có tư cách tốt hơn tôi, cán bộ về hưu, lãnh đạo nòng cốt đời thứ x, cán bộ lão thành đã từng tham gia kháng chiến trường kỳ, nhà cách mạng giai cấp vô sản |
Danh hiệu vinh quang | Chiến sỹ thi đua, đội quân danh dự, đảng viên ưu tú, đoàn viên ưu tú, đơn vị cờ đỏ, người con ngoan của đảng, người chiến sĩ giỏi của đảng, cán bộ tốt của đảng, nhà sản xuất tiên tiến, tôn vinh phụ nữ ngày 8-3, tay đột kích trường chinh mới, anh hùng lao động ngày 1-5 |
Lý tưởng | Chủ nghĩa cộng sản, thiên đường nhân gian, xã hội no ấm, cùng hưởng sung túc, xã hội hài hòa, lấy đức trị quốc, cờ đỏ tung bay toàn thế giới, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội |
Tư tưởng | Hoài nghi tất cả, mọi sự vật đều có hai mặt đối lập, sự thống nhất của hai mặt đối lập; thấy một mà hiểu hai, nhìn (sơ) qua là biết bản chất; thực sự cầu thị; phân tích tình hình; chân lý sáng tỏ nhờ tranh luận; anh không đánh thì hắn không chịu lùi; vứt bỏ ảo tưởng sẵn sàng đấu tranh; sức mạnh của các tấm gương là vô song; chưa điều tra thì chưa có quyền phát ngôn; vũ khí phê phán không thể thay thế cho sự phê phán bằng vũ khí, không quét sạch bụi bẩn thì bụi bay lên khiến chúng ta phải chạy (không dẹp sạch bọn phản động thì chúng sẽ phản lại ta); thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý; mèo đen mèo trắng không quan trọng, miễn bắt được chuột đều là mèo tốt |
Tình hình trong nước | Thay đổi diện mạo; khắp nơi chim hót tưng bừng; cuộc đại loạn đã được lập lại trật tự; đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; tình hình rất tốt, lại còn ngày càng tốt hơn |
Tình hình quốc tế | Nghiêng về một phía; diễn biến hòa bình; chủ quyền cao hơn nhân quyền; Trung Mỹ nhất định có chiến tranh; cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng; bạn bè chúng ta ở khắp năm châu; chủ nghĩa bá chủ và chính trị bạo quyền; Chiến tranh thế giới thứ 3 là không thể tránh khỏi; thế lực phản động người Hoa có chết hết thì chúng ta mới sống; hòa bình và phát triển là chủ đề của thế giới ngày nay; không phải lực lượng cách mạng áp đảo thế lực phản cách mạng, mà là ngược lại; chủ nghĩa đế quốc và tất cả thế lực phản động đều là lũ hổ giấy; chỉ có giải phóng toàn nhân loại thì giai cấp vô sản mới có thể được giải phóng thực sự |
Khởi nguồn bạo lực của đảng | Lấy vũ trang công nông làm cơ sở, chính quyền được lập nên từ nòng súng, làm cách mạng từ hai con dao nhỏ,“cách mạng chính là bạo động, là hành động tàn bạo của một giai cấp này lật đổ một giai cấp khác” |
Đảng là nhất quán và chính xác | Nhìn về phía trước, xác định tư tưởng [trước hội nghị], đóng phí, lập lại trật tự, một cơn ác mộng, rút kinh nghiệm xương máu, sinh tử tồn vong, cứu lấy cách mạng cứu lấy đảng, luôn nhất trí với trung ương đảng,nghị quyết những vấn đề lịch sử trọng đại |
Đảng có lập trường độc lập | Đi ngược lại trào lưu, tạo phản có lý, phải tính món nợ chính trị, thà lấy kẻ vô văn hóa của chủ nghĩa xã hội chứ không lấy kẻ có văn hóa của chủ nghĩa tư bản,cái gì mà kẻ thù phản đối thì chúng ta phải ủng hộ, cái gì kẻ thù ủng hộ thì chúng ta phản đối |
Đảng tàn khốc vô tình | Nắm đấm thép, chuyên chính giai cấp vô sản, tiêu diệt từ trong trứng nước |
Đảng “khoan dung độ lượng” | Sát hạch, sửa lại kết luận sai, cải chính, kết luận, chứng thực chính sách, phát bù lương, sắp xếp công tác, xử lý khoan hồng,giữ lại để đảng xem xét, giao nộp cho tổ chức, cảnh cáo nghiêm khắc trong đảng, giữ lại những đảng viên đã bị khai trừ khỏi đảng, thật thà được khoan hồng, chống cự bị nghiêm trị |
Đảng có tình người | Trao tình thương, xuống cơ sở (quan tâm đến người dân), làm việc thực chất, giải quyết mọi khó khăn, đi sâu vào quần chúng, phụng sự nhân dân, thực hành chủ nghĩa nhân đạo cách mạng |
Đảng “quyết tâm sửa sai” | Chỉnh đốn đảng, đảng phải quản đảng, thắt chặt kỷ luật đảng, chống tham nhũng, làm trong sạch đảng và nhà nước, nghiêm túc tổng kết rút ra bài học kinh nghiệm |
Đảng quyết không rời khỏi vũ đài lịch sử | Không dao động, kiên trì lãnh đạo của đảng, đề phòng diễn biến hòa bình, giang sơn màu đỏ vĩnh viễn không đổi màu, giang sơn của đảng được đánh đổi bằng sinh mệnh của hàng chục triệu người, giết 20 vạn người để đổi lấy hai mươi năm ổn định |
Văn kiện và hội nghị đảng | Phát biểu, báo cáo, hội nghị sửa chữa khuyết điểm, hội nghị giải quyết mâu thuẫn, hội nghị thảo luận, văn kiện trung ương, văn kiện của đảng, chỉ thị của cấp trên, tinh thần của trung ương, ý muốn của lãnh đạo, tiếng nói của trung ương đảng, đại hội đảng toàn quốc lần thứ x |
Kinh tế | Quốc doanh, chờ việc, thôi việc, rút lui nội bộ, đại nhảy vọt, tăng vọt sản lượng, đội sản xuất, chế độ bao cấp,chế độ hai giá, công tư hợp doanh (hình thức kinh doanh do nhà nước và tư nhân cùng góp vốn), công xã nhân dân, một bình ổn hai điều tiết, kinh tế kế hoạch, đặc khu kinh tế, về hưu mất sức, chế độ sở hữu tập thể |
Quân sự | Tổng chính trị, tổng tham mưu, vượt chiến tuyến, đảng chỉ huy nòng súng, chủ tịch quân ủy, lực lượng hùng hậu vững mạnh, quân đội nhân dân, tình quân dân như cá với nước, quân đội của nhân dân yêu nhân dân |
Giáo dục | Học công nhân, học nông dân, mở lớp dạy học, vừa hồng vừa chuyên, giỏi chuyên môn nhưng thờ ơ chính trị, bốn đức tính tiêu chuẩn của con người mới, người tiếp nối cách mạng, tiếp thu giáo dục giai cấp, phát triển toàn diện đạo đức, trí tuệ, thể chất, năm lời dạy, bốn đức tính, ba yêu mến,tiến bước đi lên tiếp nối truyền thống của cha ông, chiếc khăn quàng đỏ được nhuốm bằng máu của các chiến sỹ cách mạng đã hy sinh |
Tin tức | Thông tin nội bộ, mẫn cảm, xử bắn,tự hạn chế, định hướng dư luận, miệng lưỡi của đảng, tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại, bộ tuyên truyền trung ương, trung tâm tuyên truyền của đảng, bộ phận thẩm tra cấp trên |
Đấu với Trời Đất | Chống lũ lụt, chống hạn hán, tiêu diệt tứ hại, thay trời đổi đất, bình nguyên nhân tạo, vây hồ thành ruộng, hăng hái làm thủy lợi, khiến núi cao phải cúi đầu, sông sâu phải rẽ lối |
Đấu với người | Xác định, giao nộp, kiểm tra, kiểm thảo, thẩm tra chính trị, thuyên chuyển, sàng lọc, thọc gậy bánh xe, nắm thóp, chụp mũ, đánh đập, khai đao từ…, phóng đại, vạch rõ giới hạn, đường lối sai lầm, anh sống tôi chết, gánh chịu mọi hậu quả từ sai lầm của mình, tạo ra bước đột phá, vùi lên dập xuống, bới lông tìm vết, suốt đời không ngóc đầu lên được, đấu tranh tàn khốc đàn áp vô tình, kẻ thù không đầu hàng thì phải tiêu diệt chúng; quần chúng rất có mắt (mượn quần chúng để đả kích người bất đồng ý kiến), đã đạp đổ lại còn giày xéo |
Khẩu hiệu thời đại | “… hãy vùng lên”, “xxx vạn tuế”, “gìn giữ nước nhà”, “công xã nhân dân là tốt”, hăng hái phấn đấu, xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa nhanh chóng vừa tiết kiệm công sức, lấy … làm cương lĩnh, đường lối chung chính là ngọn đèn soi sáng cho mọi hành động của chúng ta, đả đảo…”, “phản đối chủ nghĩa…”, “học theo tấm gương đồng chí xxx”,tìm thấy cách mạng, thúc đẩy sản xuất,“nghỉ học đi làm cách mạng”, “tiếp tục cách mạng dưới chế độ chuyên chính vô sản, “dội pháo……”, “chuẩn bị chiến tranh, đề phòng mất mùa, vì dân phục vụ, “làm trang trại cho nông nghiệp”, “tinh thần ngày quốc khánh của giai cấp công nhân”, “cùng nhau đoàn kết đánh bại…”, “hãy đoàn kết lại, giành lấy……”, “đoàn kết một lòng hướng về phía trước”, “ chủ nghĩa xã hội không có nghèo đói, bần cùng”, “một trung tâm, hai phương hướng cơ bản”, “ba điều cần giảng”, “chiến lược ba bước”, “ba định hướng”, “ba đại biểu”, “ba điều có lợi”, “tứ hữu”, “tứ hóa”, “bốn nguyên tắc cơ bản”, “kế hoạch năm năm”, “nền văn minh…. chủ nghĩa xã hội”, “nền kinh tế…. chủ nghĩa xã hội”, “giai đoạn … chủ nghĩa xã hội”, “chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc”, “tiến hành xxx cho đến cùng”, “xxx áp đảo tất cả” |
Tư tưởng được đảng khuyến khích | Gian khổ cần kiệm, yêu ghét rõ ràng, hiến dâng hết mình, đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân, ý thức giác ngộ chính trị cao, dựa vào đảng, tích cực cầu tiến, nghe lời đảng và đi theo đảng, đảng bảo làm gì thì làm nấy, trung với cách mạng trung với đảng, lập trường kiên định ý chí đấu tranh mạnh mẽ, một không sợ khổ hai không sợ chết, quay lưng lại với gia đình thuộc giai cấp bóc lột, nguyện làm con người cần mẫn, trung thành của cách mạng, nguyện làm chiếc đinh ốc trong bộ máy cách mạng, đối với kẻ thù phải tàn khốc vô tình như mùa đông khắc nghiệt, phấn đấu suốt đời vì sự nghiệp chủ nghĩa cộng sản |
Chụp mũ chính trị | Cánh hữu, xã hội đen, công kích tàn bạo, tà giáo, làm chính trị, phần tử tam phản, phá hoại hợp tác hóa, nhà tư bản bất hợp pháp, lịch sử phản cách mạng, phản cách mạng hiện hành, phản đảng phản chủ nghĩa xã hội, tự do hóa giai cấp tư sản, con hiền cháu thảo của giai cấp xx |
Danh từ thường gặp | Đường lối, phương châm, chính sách, phương hướng, nhiệm vụ, chế độ, nòng cốt, lãnh đạo, cán bộ, đội ngũ, nhân dân, quần chúng, kẻ địch, thế lực, bảo chứng, tượng đài, cải cách, giác ngộ, vũ khí, chiến tuyến, tính tổ chức, tính kỷ luật, tính khoa học, đội quân tiên phong, sức chiến đấu |
Động từ thường gặp | Tuyên truyền, quán triệt, chấp hành, hiệu triệu, động viên, đấu tranh, phấn đấu, chiến đấu, chỉ trích, tổng kết, tiền tiến, thúc đẩy, kiên trì, cải thiện, phát triển, coi trọng, tăng cường, củng cố, giương cao,mất đi, nguy hại, dao động, xây dựng kiện toàn, tăng cường thêm một bước, tăng cường… thêm nữa |
Tính từ thường gặp | (Đảng) vĩ đại, quang vinh, chính xác, (đấu tranh) trường kỳ, gian khổ, phức tạp, (con đường trải qua) vinh quang, chói lọi, (tinh thần) quả cảm, (gia nhập đảng, hy sinh) vinh dự vẻ vang, kiên quyết (ủng hộ), (lĩnh hội, nhận thức) sâu sắc, (lập trường) vững chắc, tự giác (giữ gìn, ngăn chặn), nghiêm túc (chấp hành), vô cùng (coi trọng), (ý nghĩa) trọng đại, (quan tâm, gặp mặt) thân thiết, khí phách hăng hái, tinh thần chiến đấu sục sôi, kiên định không dao động, quyết đoán nhanh chóng, rầm rộ oanh liệt, ngọn cờ tươi sáng |
Những từ ngữ trong bảng trên, từ cách xưng hô trong giao tiếp như “đồng chí, lãnh đạo, cấp trên”, cho đến thời kỳ lịch sử “trước giải phóng, sau giải phóng”; từ xuất thân gia đình “bần nông, phú nông, địa chủ”, cho đến cách phân biệt đẳng cấp trong công việc “hồng quân, lão thành cách mạng”; từ các danh từ quen thuộc “đường lối, phương châm, chính sách”, cho đến các động từ thường gặp như “tuyên truyền, quán triệt, chấp hành, hiệu triệu, động viên” v.v. tất cả đều là sản phẩm của văn hóa đảng. Chỉ cần xem qua một lượt cũng khiến người ta cảm thấy vô cùng áp lực và ngột ngạt.
2) Chế độ chính trị được hình thành trong ngôn từ của đảng
(1) “Đảng” là nòng cốt của ngôn từ của đảng
“Đảng” là trung tâm của ngôn từ của đảng, những bộ phận khác của hệ thống ngôn từ của đảng đều được xây dựng xung quanh trung tâm “đảng”. Trong ngôn từ của đảng, bất kể có xuất hiện từ “đảng” hay không, chúng ta đều có thể suy luận và phát hiện ra đằng sau nó có bàn tay hắc ám của “đảng”. Ví dụ, từ “đồng chí” không xuất hiện chữ “đảng”, nhưng chúng ta chỉ cần hỏi một câu rằng “đồng lòng theo chí hướng của ai?” thì sẽ phát hiện ra bóng ma Trung Cộng ở đằng sau.
Từ khái niệm “đảng” sinh ra phạm trù “giáo điều của đảng” và “hoạt động của đảng”. “Giáo điều của đảng” là cơ sở lý luận của Đảng Cộng sản và dùng để lừa gạt người dân, chúng ta sẽ nói cụ thể hơn ở chương sau. “Hoạt động của đảng” là cơ chế vận hành của đảng để đảm bảo địa vị thống trị chính trị của nó không bao giờ thay đổi, bao gồm tổ chức, phương châm, chính sách, vận động, nhân viên, kỷ luật và chế độ thưởng phạt v.v.. phương hướng vận động của các quy định xã hội, khống chế tư tưởng và hành vi của con người một cách toàn diện, tạo thành mảnh đất văn hóa đảng lớn mạnh, hòa tan và nhào nặn nên ý thức tư tưởng của người dân.
(2) Thể chế chính trị Trung Cộng do ngôn từ của đảng xây dựng
Bảng dưới đây đã phác họa nên thể chế chính trị Trung Cộng thông qua ngôn từ của đảng thường gặp. (Bảng 2)
Lãnh tụ của đảng | Marx Engels Lenin Stalin Mao Trạch Đông; bốn vị lãnh tụ vĩ đại; nhà hoạch định cho công cuộc cải cách mở cửa;người mở đường dẫn lối; chiếm vị trí tối cao vô thượng;quyền uy tuyệt đối của xxx đến từ quần chúng nhân dân |
Địa vị lãnh đạo nòng cốt của đảng | Nòng cốt của đảng; Đảng Cộng sản Trung Quốc là đội tiên phong của giai cấp công nhân; lực lượng nòng cốt lãnh đạo sự nghiệp của chúng ta là Đảng Cộng sản Trung Quốc; sự lãnh đạo của Đảng là sự bảo đảm căn bản cho chúng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi lớn hơn; đảng là người thống soái và dẫn đường cho công cuộc cách mạng và sự nghiệp xây dựng chính đảng của giai cấp vô sản, là sự bảo đảm căn bản cho giai cấp vô sản tự giải phóng và tiến đến giải phóng toàn nhân loại, là sự bảo đảm căn bản cho sự phát triển không ngừng của chủ nghĩa cộng sản |
Đường lối của đảng | Đường lối chính trị, đường lối tư tưởng, đường lối tổ chức, đường lối văn hóa nghệ thuật, đường lối cán bộ, đường lối quần chúng, đường lối giai cấp, đường lối nông thôn, thống nhất đường lối; đường lối phong trào công nhân |
Chính sách của đảng | Đánh đổ địa chủ chia lại ruộng đất; hợp tác hóa; công xã nhân dân; đoàn kết đại đa số,đả kích thiểu số; có thành phần nhưng không phải duy thành phần luận; quan trọng là biểu hiện chính trị; khiến cho một bộ phận giàu lên; thu hẹp khoảng cách giữa thành phố và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp; không giết thì không giải tỏa được sự phẫn nộ của người dân; giấu nghề; ổn định áp đảo hết thảy; tiêu diệt tất cả nhân tố bất ổn định từ trong trứng nước; dò dẫm kinh nghiệm; mở cửa ra thế giới; đặc khu kinh tế |
Sự nghiệp xây dựng đảng | Tác phong của người cán bộ có ảnh hưởng đến bộ mặt xã hội; căn cứ cách mạng; con đường trường chinh; nhìn lại lịch sử; học tập lịch sử; tuyên dương truyền thống cách mạng quang vinh; chỉnh đốn đảng, chỉnh phong; cuộc vận động duy trì sự phát triển giáo dục tiên tiến; chỉnh đốn tổ chức; làm trong sạch nội bộ; đăng ký lại; phát triển tổ chức; sinh hoạt tổ chức; đưa chi bộ đảng vào nhân dân, quân đội; bảo đảm cho sự bất bại; thiên thu vạn đại vĩnh viễn không thay đổi; sự nghiệp cách mạng không có người kế tục; sự nghiệp cách mạng rốt cuộc sẽ kéo dài bao lâu |
Tác phong của đảng | Gian khổ cần cù; đoàn kết khẩn trương nghiêm túc sôi nổi; làm thành một khối với quần chúng; quan tâm đến nỗi khổ của quần chúng; không lấy một cây kim sợi chỉ của người dân; cán bộ xuống lao động với người dân; vai trò đầu tàu; phê bình và tự phê bình; chỉnh đốn tác phong của đảng |
Kỷ luật của đảng | Tuyệt đối phục tùng tổ chức; cấp dưới theo mệnh lệnh cấp trên, toàn đảng theo mệnh lệnh trung ương; không sợ hy sinh xương máu; không bao giờ phản bội; hiểu thì phải chấp hành, không hiểu cũng phải chấp hành; không có điều kiện sáng tác cũng phải sáng tác; đảng chỉ huy họng súng, tất cả do đảng ủy lãnh đạo; lãnh đạo tập thể; chế độ bảo mật |
Kết cấu tổ chức của đảng | Nhiệm vụ tình báo; cơ quan tình báo đảng; đội thiếu niên tiền phong; trung ương đoàn thanh niên cộng sản; liên đoàn; công đoàn; phòng nhân sự; phòng cán bộ; ban đối ngoại trung ương đảng; ban tổ chức; ban tuyên giáo trung ương đảng; quân ủy trung ương; chính ủy; chủ nhiệm, phó chủ nhiệm bộ chính trị; chính trị viên; tỉnh ủy; bí thư tỉnh ủy; thành ủy; thư ký thành ủy; thư ký thứ nhất; thư ký thứ hai; tổ chức đảng; đảng ủy; thư ký; thư ký đảng ủy; thành viên đảng ủy; chi bộ; bí thư chi bộ; tổng bí thư chi bộ; ủy viên chi bộ; cán bộ công tác chính trị |
Sinh hoạt tổ chức của đảng | Truyền đạt báo cáo, nộp đảng phí, nộp đoàn phí; sinh hoạt tổ chức; ngày hoạt động tập thể đội; học tập chính trị; sinh hoạt chính trị; kiểm điểm tư tưởng; phê bình và tự phê bình; tìm hiểu tư tưởng của mọi người; tranh cử vào đảng, vào đoàn; đảng viên dự bị; thời gian dự bị; phát triển tổ chức; đối tượng phát triển; đảng viên dự bị chuyên chính; được tổ chức bên trên nói chuyện; kinh phí hoạt động của đảng; tổ chức đảng; phần tử tích cực; đảng viên trù bị; tổ chức thử thách; hủy bỏ tư cách đảng viên dự bị; khuyến khích nhà tư bản gia nhập đảng, tổ chức đảng thuộc Giáo hội Ái quốc Tam tự [2] |
Đấu tranh giữa các phe phái trong đảng | Phe cải cách và phe bảo thủ; hai bộ tư lệnh; chính quyền đương thời đi theo con đường tư bản chủ nghĩa; hai điều ‘phàm là’ [3]; trong lịch sử đảng đã nhiều lần đấu tranh chống lại chủ nghĩa cơ hội của các phe cánh tả, cánh hữu. |
Văn kiện của đảng | Nguyên tác chủ nghĩa Mác Lê; tư tưởng Mao Trạch Đông; tuyển tập các câu nói trứ danh của Mao; tuyển tập Mao Trạch Đông; bốn áng hùng văn; sổ tay của người chiến sĩ cách mạng; lý luận Đặng Tiểu Bình; văn kiện của đảng; tài liệu phân phát đến từng văn phòng; lịch sử đảng; lịch sử các cuộc vận động cộng sản quốc tế; báo cáo đại hội toàn toàn quốc Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ x; nghị quyết xx của đảng; bài phát biểu của đồng chí xx tại hội nghị xx; tuyển tập các bài viết của Giang Trạch Dân |
Quan hệ giữa đảng cộng sản và các đảng phái chính trị khác | Thống nhất chiến tuyến; nhân sỹ dân chủ; cùng chung chí hướng; đối đãi chân thành; vinh nhục cùng chịu; trung thành với Đảng Cộng sản; trung thành ủng hộ Đảng Cộng sản; vật trang trí; Hội hiệp thương Dân chủ Chính trị; “Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, các đảng phái hợp tác”c; Đảng Cộng sản Trung Quốc chấp chính còn các đảng phái khác tham chính (tham gia hoạt động chính trị) ; các đảng phái dân chủ là người bạn thân thiết của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đoàn kết hợp tác với đảng để tham gia hoạt động chính trị, chứ không phải là phản đối đảng hoặc đứng bên ngoài đảng” |
Quan hệ trung ương và địa phương | Toàn đảng phục vụ trung ương; thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động; thống nhất tiến độ; đoàn kết chặt chẽ trong nội bộ trung ương đảng; nhất trí cao với trung ương đảng do xxx lãnh đạo |
Quan hệ cấp trên và cấp dưới | Cấp dưới theo mệnh lệnh của cấp trên; hiểu thì phải chấp hành, không hiểu cũng phải chấp hành |
Quan hệ đảng và quân đội | Đưa chi bộ đảng vào quân đội; đảng chỉ huy họng súng; quyết không cho phép họng súng chỉ huy đảng |
Quan hệ đảng và quần chúng | Nhân dân; chủ nhân của đất nước; giai cấp công-nông-binh làm chủ đất nước; sáng tạo ra động lực của lịch sử; bảo vệ tính tích cực của quần chúng cách mạng; công-nông-binh học làm thương mại; quan tâm đến nỗi khổ của dân; cùng chung hoạn nạn; đường lối quần chúng |
Tổ chức phản đảng | Bè lũ phản cách mạng; bom hẹn giờ ẩn trong đội ngũ cách mạng; đường lối chủ nghĩa hữu khuynh của Trần Độc Tú; bè lũ phản đảng Cao Nhiêu; bè lũ phản đảng Hồ Phong; bè lũ phản đảng Bành Đức Hoài; bè lũ phản cách mạng Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình; bè lũ phản đảng Lâm Bưu; bè lũ bốn tên; bè lũ phản bội |
Kỹ thuật tuyên truyền | Tham gia nội bộ; cơ quan thông tấn Tân Hoa Xã; cơ quan báo chí của Trung Cộng; tình hình mới của cải cách mở cửa; tuyên truyền kỷ luật; tinh thần của đảng; đại hội lần này là một đại hội đoàn kết, đại hội thống nhất tư tưởng, đại hội thắng lợi |
Có thể nói mỗi người Trung Quốc đều rất quen thuộc với những nội dung trong bảng trên. Trung Cộng đã dùng ngôn từ của đảng để đặt định ra từ cách xưng hô người có quyền lực tối cao trong đảng, cho đến địa vị độc tài, cơ chế vận hành, thủ đoạn thống trị của nó v.v.. Vậy mà người Trung Quốc ngày nay trong công tác, trên giảng đường, trong học tập chính trị vào mọi thời khắc đều không ngừng lặp lại những ngôn ngữ đó của Trung Cộng, họ tâng bốc nịnh hót lãnh đạo đảng, công nhận địa vị độc tài của Trung Cộng, tuân thủ sinh hoạt tổ chức và kỷ luật của đảng, đi theo đường lối, chính sách của đảng. Ngôn ngữ chính trị của Trung Cộng đã trở thành một phần cuộc sống của người dân. Có một số nhìn từ bề mặt sẽ không dễ nhận ra màu sắc văn hóa đảng bên trong, nhưng nếu chúng ta so sánh với Trung Quốc cổ đại và những quốc gia khác, hoặc phân tích những nhân tố đằng sau từ ngữ đó, thì chúng ta có thể thấy rằng những từ ngữ này hoàn toàn được hình thành trong quá trình hoạt động của Trung Cộng, chứa đựng ý đồ rõ ràng của Trung Cộng, hoàn toàn không giống với ngôn ngữ của xã hội bình thường.
3) Đời sống tinh thần bị đảng cưỡng chế
Đảng Cộng sản đã ngụy trang tư tưởng chỉ đạo của nó thành “chân lý” duy nhất của thế giới và đời người, vì vậy tất nhiên phải ngụy tạo một hệ thống ngôn ngữ phủ khắp mọi phương diện xã hội. Tất cả những vấn đề được trả lời và giải đáp bởi tôn giáo, triết học, khoa học, lịch sử, luân lý đạo đức, văn học nghệ thuật trong xã hội truyền thống, đều có thể tìm được một cách nói thay thế trong hệ thống ngôn ngữ của đảng.
Chúng ta hãy xem “tín ngưỡng” của Trung Cộng. Tôn giáo chính thống giúp con người không ngừng đề cao tâm tính của mình (tiêu chuẩn đạo đức), nó câu thông với tiêu chuẩn của thế giới Thiên quốc, từ đó đạt đến “niết bàn”, “viên mãn”, đạt được sinh mệnh vĩnh hằng. Còn Trung Cộng trước tiên tuyên truyền rằng Thiên quốc và Địa ngục đều không tồn tại, Thần là do con người sáng tạo ra; rồi tiến đến đem cái gọi là “tính tất yếu của lịch sử” ra sùng bái như Thần, và tuyên truyền rằng bản thân nó đại biểu cho “tính tất yếu của lịch sử”. Tính tất yếu của lịch sử này quy định: Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của lịch sử, thế là đảng cộng sản ngang nhiên hô hào bạo lực và tàn sát, từ đó biến mọi hành vi tội ác thành “hợp pháp”.
Chúng ta hãy xem lại đạo đức của Trung Cộng. Nội hàm của đạo đức truyền thống là “đạo và đức”, “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. “Đạo đức” mà đảng định nghĩa là “một trong những hình thái ý thức xã hội, là hoạt động cộng đồng của con người và chuẩn tắc, quy phạm của các hành vi trong đó. Đạo đức thông qua dư luận của xã hội và của một giai cấp nhất định để khởi tác dụng ước thúc đối với cuộc sống trong xã hội. Các giai cấp khác nhau có các quan niệm đạo đức khác nhau. Đạo đức của chủ nghĩa cộng sản là đạo đức tối cao của nhân loại” (“Từ điển Hán ngữ hiện đại”, 1981, nhà xuất bản thương mại, Bắc Kinh).
Dễ dàng nhận thấy rằng, trong hệ thống ngôn từ của đảng, tất cả chân lý, lịch sử, đạo đức, tính nghệ thuật v.v. đều phục vụ cho sự thống trị của Trung Cộng.
Bảng dưới đây liệt kê những từ ngữ thường dùng của đảng trong quá trình cải tạo tư tưởng người Trung Quốc. (Bảng 3)
Phủ nhận chính tín | Tôn giáo là thuốc phiện tinh thần, chế độ phong kiến mê tín; phản ánh mơ hồ về thế giới khách quan; Chủ nghĩa Cộng sản là thiên đường; tính tất yếu của lịch sử; Giáo hội Ái quốc Tam tự |
Con người đến từ đâu | Thuyết tiến hóa; kẻ mạnh ăn thịt kẻ yếu, kẻ thích nghi thì tồn tại; vai trò của lao động đối với quá trình vượn tiến hóa thành người |
Con người đi về đâu | Chủ nghĩa cộng sản; phân phối theo nhu cầu; tiêu diệt giai cấp; xây dựng thiên đường nhân gian; sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân là điều kiện tiền đề cho sự phát triển toàn diện của tất cả mọi người |
Ý nghĩa nhân sinh ở đâu | Làm người chiến sỹ tốt của Mao chủ tịch; làm chiếc ốc vít không bao giờ han gỉ của bộ máy cách mạng; phấn đấu suốt đời vì sự nghiệp Chủ nghĩa Cộng sản; toàn bộ cuộc đời và tinh lực của tôi đều cống hiến cho sự nghiệp tráng lệ nhất thế giới – đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng nhân loại |
Cơ sở lý luận của đảng
|
Chủ nghĩa Marx Engels Lenin; tư tưởng Mao Trạch Đông; lý luận Đặng Tiểu Bình; bài giảng của Giang Trạch Dân; hình thái ý thức chủ nghĩa xã hội; giai đoạn sơ cấp, giai đoạn cao cấp của chủ nghĩa cộng sản; thực hiện lý tưởng chủ nghĩa cộng sản; đi theo con đường chủ nghĩa xã hội; vật chất vô cùng phong phú; phân phối theo nhu cầu; phân chia theo lao động; ngọn đèn chỉ đường; triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học là ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Marx Lenin; triết học đấu tranh; chủ nghĩa duy vật biện chứng;chủ nghĩa duy vật lịch sử; chủ nghĩa duy vật; vật chất quyết định ý thức, ý thức quyết định lại vật chất; chủ nghĩa xã hội khoa học; cơ sở kinh tế quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng quyết định lại cơ sở kinh tế |
“Cái nhìn lịch sử” của đảng | Xã hội không có giai cấp; xã hội giai cấp; xã hội nguyên thủy; xã hội nô lệ; xã hội phong kiến; xã hội phong kiến nửa thực dân; cách mạng dân chủ cũ; cách mạng dân chủ mới; xã hội chủ nghĩa; thời kỳ đầu của chủ nghĩa xã hội |
“Quan điểm về đạo đức” của đảng | Đảng tính; công cụ thuần phục; trung thành vô hạn với xxx; bảo vệ cho đến chết; trung thành vô hạn với đảng; ba trung thành vô hạn; tình cảm giai cấp giản dị, chân thành; sự tu dưỡng của đảng viên cộng sản; hiến dâng tất cả cho đảng; tôi luyện ý chí như thế nào; mọi việc đều theo sự sắp xếp của tổ chức đảng; lợi ích của đảng cao hơn tất cả; đảng chỉ đâu thì đánh đấy; mang theo quyết tâm chiến đấu ra tiền tuyến dù phải hy sinh; chỉ nghĩ có lợi cho người khác mà không tơ hào cho bản thân; yêu Đảng Cộng sản Trung Quốc, yêu chủ nghĩa xã hội; chỉ thị của đảng là linh hồn của tất cả hành động của chúng ta; năm lời khuyên, bốn phẩm chất, ba yêu mến; bốn phẩm chất của con người mới; giáo dục nhân sinh quan về khoa học; bát vinh bát nhục; quan niệm vinh nhục của chủ nghĩa xã hội |
“Cái nhìn văn hóa nghệ thuật” của đảng | Dao găm; ngọn giáo; hoa thơm; cỏ độc; tính tư tưởng; ba điều vượt trội; tấm gương cách mạng; quan điểm cơ bản; đề tài lịch sử cách mạng; đề tài hiện thực cách mạng; chủ nghĩa lãng mạn cách mạng; chủ nghĩa hiện thực của chủ nghĩa xã hội; nghệ thuật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng; nghệ thuật phục vụ công-nông-binh nghệ thuật phục vụ giai cấp vô sản |
Cải tạo tư tưởng | “Tụt quần” (sỉ nhục); từ bỏ thói quen xấu; rửa sạch; viết kiểm điểm; báo cáo tư tưởng; lũ thối tha; bước đường cùng; chính sách cơ bản lâu dài cho phần tử trí thức Trung Quốc; phương thức khống chế phần tử trí thức; phần tử trí thức chỉ là một lực lượng có thể lợi dụng được; giáo dục họ khắc phục tư tưởng sai lầm của địa chủ, giai cấp tư sản hoặc giai cấp tiểu tư sản |
Đối với người Trung Quốc mà nói, có lẽ “tôn giáo là thuốc phiện tinh thần”, “phong kiến mê tín” v.v.. đều là những câu nói cửa miệng, dùng để chỉ trích tín ngưỡng truyền thống. Nhưng rất ít người có thể suy xét kỹ lưỡng xem tại sao họ lại có suy nghĩ này, ngôn từ của họ rốt cuộc là từ đâu đến. Thực ra, Trung Quốc trong quá khứ hàng nghìn năm đều tồn tại các loại tín ngưỡng, việc một mực triệt để coi tín ngưỡng chính thống truyền thống là “phong kiến mê tín” hoàn toàn là sản phẩm của văn hóa đảng Trung Cộng. Thật hài hước là khi người ta mù quáng tin tưởng Chủ nghĩa Cộng sản, hoàn toàn chịu sự khống chế tư tưởng của Trung Cộng, từ đó gây ra cho xã hội Trung Quốc những tai ương chính trị liên tiếp, thì lại rất ít người nghĩ rằng “Chủ nghĩa Cộng sản là thuốc phiện tinh thần”, “Đảng Cộng sản là tà giáo”, vì thông qua sự nhồi nhét lâu dài lặp đi lặp lại, Trung Cộng đã tạo ra một mối liên hệ chắc chắn giữa những từ như “thuốc phiện tinh thần”, “tà giáo” và một số đoàn thể bị Trung Cộng công kích, khiến người ta khó mà đột phá lối tư duy đã hình thành, sau đó quay ngược lại dùng những từ ngữ này để nhìn nhận Trung Cộng.
4) Ngôn từ của đảng xâm nhập mạnh mẽ không gian riêng tư
Trung Cộng khống chế xã hội một cách nghiêm ngặt cực đoan, các lĩnh vực vốn dĩ được chế ước quy phạm bởi các đạo đức luân lý, tập tục xã hội trong xã hội thông thường, thì cũng rơi vào bàn tay hắc ám của Trung Cộng. Dưới sự thống trị của Đảng Cộng sản, cuộc sống riêng tư của người Trung Quốc cũng tràn ngập ngôn từ của đảng. Ngôn ngữ bình thường của con người một khi được “đảng” coi trọng và sử dụng thì sẽ bị ô nhiễm thành ngôn từ của đảng; ngôn từ của đảng còn thâm nhập, lấn chiếm, cải biến và thôn tính một cách trắng trợn thể hệ ngôn ngữ của người bình thường.
Xã hội truyền thống gọi những người có quan hệ hôn nhân là “phu thê”, “vợ chồng”, “tướng công”, “phu nhân”, thời cận đại thì gọi là “ông nhà”, “bà nhà”, khách khí một chút gọi là “bố nó”, “mẹ nó”, thoải mái một chút gọi là “ông xã”, “bà xã”. Cho dù gọi thế nào đều thể hiện sự khác biệt giữa nam và nữ, trong đó bao hàm ý tôn trọng những đặc điểm giới tính khác nhau, từ đó tạo nên sự hòa hợp giữa hai giới.
Dưới chế độ Trung Cộng, mọi người gọi vợ/chồng mình là “ái nhân” (người yêu). “Ái nhân” vốn là cách gọi của những người ái mộ lẫn nhau, ý nghĩa tương tự như “người yêu”, có nhiều nước dùng để chỉ người tình, đặc biệt là quan hệ ngoài hôn nhân, quan hệ bất chính. Tại các khu “căn cứ địa” của Trung Cộng, từ này được dùng rộng rãi để chỉ “sự hôn phối”, cả vợ lẫn chồng đều gọi chung là “ái nhân”, nghe nói rằng nó “phản ánh địa vị người phụ nữ đã được nâng cao và sự cải cách về kết cấu gia đình”. Nhà sử học Ngô Hàm khi mới đến “khu giải phóng”, nghe người ta giới thiệu vợ của Ngô Ngọc Chương: “Đây là ái nhân của ông Ngô.” Ông giật mình, trong lòng nghĩ, Ngô Ngọc Chương đã lớn tuổi thế rồi còn yêu đương gì nữa?
Từ “ái nhân” mặc dù không mang theo cái mùi mạnh như từ “đồng chí” nhưng đằng sau bất cứ từ ngữ nào cũng hàm chứa cái nhìn với cuộc sống và phương thức sinh sống. Cái gọi là “chủ nghĩa bình quân” mà Trung Cộng tuyên truyền đã cố gắng cào bằng mọi sự khác biệt giữa người với người về phẩm chất đạo đức, trình độ văn hóa, địa vị xã hội, độ giàu có và khác biệt giới tính. Cách dùng của từ “ái nhân” phản ánh những quan niệm được Trung Cộng cổ súy như “nam nữ bình đẳng”, “phụ nữ là một nửa thế giới” (sẽ phân tích kỹ ở chương sau), làm biến dị quan hệ giữa hai giới tính nam và nữ, đảo lộn kết cấu gia đình truyền thống, cuối cùng dẫn đến các vấn đề xã hội nan giải phức tạp. Con người vốn có nam có nữ, nam giới và nữ giới có vai trò và nghĩa vụ của mình, âm dương hòa hợp mới có được gia đình hòa hợp. Trung Cộng lại muốn người ta không phân biệt nam nữ, muốn nữ giới làm những việc của nam giới, thậm chí nữ giới cũng tham gia bạo lực, vận động “cách mạng”, như vậy người phụ nữ không những không còn dịu dàng, mà lại còn cứng rắn giống như nam giới, trong gia đình cũng xuất hiện đấu tranh và các va chạm “nhiệt tình cách mạng”, thế thì làm sao có thể có cuộc sống hài hòa được? Ngày nay, khi hình thái ý thức của Chủ nghĩa Cộng sản đã bị sụp đổ, từ “đồng chí” ngày càng bị quên lãng, không biết từ bao giờ, rất nhiều người đã gọi những người đồng tính là “đồng chí”. Nhưng người ta vẫn không ý thức được hàm nghĩa văn hóa đảng trong từ “ái nhân”, “ái nhân” vẫn là một trong những cách thường dùng để xưng hô vợ chồng của người Trung Quốc.
Cuộc sống thường nhật của người Trung Quốc trong mọi phương diện đều tràn ngập ngôn từ của đảng. Ví dụ, miêu tả một người hay cáu kỉnh, mọi người thường nói anh ta “đầu não sặc mùi đấu tranh giai cấp”; khen một người có tài đức vẹn toàn, người ta thường nói “vừa hồng vừa chuyên”; mô tả một người cần kiệm đảm đang, người ta sẽ nói “phấn đấu gian khổ” hoặc là “cần cù gian khổ”. Khi ai đó đau khổ tuyệt vọng, người khác sẽ an ủi anh ta rằng, phải “biến đau buồn thành sức mạnh”; có người đạt thành tích, người khác sẽ cảnh báo anh ta, chớ “kiêu căng, nóng nảy”, “đây mới chỉ là bước đầu trong cuộc Vạn lý Trường chinh”.
Từ khi sinh ra người ta đã bị bao vây bởi ngôn từ của đảng. Nhà ai mới sinh em bé, đồng nghiệp sẽ nói: “Nhà anh có người tiếp nối cách mạng rồi.” Đặt tên là “Hướng Đông”, “Vệ Đông”, “Kiến Quân”. Khi đi học ai cũng phải đeo “khăn quàng đỏ” (một góc cờ đỏ của Trung Cộng), thời tiểu học học giỏi thì được bình bầu làm “đội viên ưu tú”, thời trung học học giỏi thì được bình bầu làm “đoàn viên thanh niên ưu tú”. Phổ thông chia theo khối văn hóa và tự nhiên, chắc chắn sẽ có người khuyên rằng “học giỏi toán lý hóa thì đi đâu cũng không sợ”, vì dưới sự thống trị của Trung Cộng, môn văn rất gần với hình thái ý thức của đảng nên người ta cho đó là con đường nguy hiểm. Câu đầu tiên trong đánh giá cuối học kỳ chắc chắn là “học sinh này cần tiến bộ hơn về chính trị, tích cực tham gia tổ chức đảng (đoàn). Điền lý lịch, phải thêm “xuất thân gia đình” và “thành phần bản thân”. Lên đại học thì không tránh khỏi phải tiếp xúc với “bí thư đảng”, “bí thư đoàn”, “phụ đạo viên chính trị”. Kết bạn thì nói “chúng ta từ khắp nơi trên cả nước, đến với nhau vì một mục tiêu cách mạng”.
Khó khăn lắm mới tìm được một công việc, phải nói là mình “tham gia công tác” rồi. Ý nghĩa của “tham gia công tác” là: Chỉ có một loại công tác, đó là “công tác cách mạng” của Trung Cộng, ý nói là hiện nay tôi đã được kết nạp thành một thành viên trong đó rồi. “Tham gia công tác” có nghĩa là người này đã có “đơn vị”, đã tìm thấy “tổ chức”, mỗi tuần phải tham gia nửa ngày “học tập chính trị”, sét đánh cũng không được thay đổi. Kết hôn phải được “đơn vị” viết “thư giới thiệu”, sinh con phải có “chỉ thị”. Cứ thế làm mấy chục năm, đến tuổi về hưu phải xét công luận tội theo các quy tắc của bộ máy quan liêu của Trung Cộng, ai trước đây tham gia “cách mạng” vào năm nào đó, thì giờ gọi là “cán bộ nghỉ hưu”, mấy năm sau tham gia “cách mạng” gọi là “cán bộ về hưu”, trẻ hơn một chút thì không có “về hưu”, chỉ là “xuống chức”, “rút lui nội bộ”, bị “tổ chức” hất cẳng, ra ngoài “tự mưu sinh”. Có người không chịu nổi nỗi uất ức, liền chủ động đi kinh doanh buôn bán, “giữ chức nhưng ngừng nhận lương”, “lĩnh BHXH một lần”. Nếu chẳng may qua đời, nhận xét tốt nhất trong cáo phó là “trung với cách mạng, trung với đảng”, “sự ra đi của đồng chí xxx là mất mát to lớn của đảng ta, quân ta và nhân dân các dân tộc cả nước”, lễ truy điệu sẽ không thể thiếu việc liệt kê tên những cán bộ đảng và nhà nước đã tới thăm người đó trong thời gian lâm bệnh nặng.
Kết quả của việc ngôn từ của đảng xâm lấn vào đời sống cá nhân là: Kết cấu của xã hội bình thường, cuộc sống gia đình, toàn bộ tư tưởng, tình cảm của người ta đều bị ô nhiễm bởi văn hóa đảng, con người mất đi hệ thống tham chiếu quan trọng để dựa vào mà đánh giá chính quyền Trung Cộng.
Bản gốc:
http://www.epochtimes.com/gb/6/10/27/n1500011.htm
Chú thích
[1] Người dịch: bản gốc là “đảng thoại”, chữ thoại trong quan thoại, bạch thoại. “Đảng thoại” có thể hiểu là ngôn ngữ đảng, lời của đảng, từ ngữ của đảng, ngôn từ của đảng, ở đây người dịch chọn dùng từ “ngôn từ của đảng”
[2] Giáo hội Ái quốc Tam tự là một tổ chức Giáo hội Tin lành quốc doanh do nhà nước điều khiển.
[3] Hai điều ‘phàm là’: Phàm là quyết sách của Mao Trạch Đông, chúng ta đều phải kiên quyết ủng hộ; phàm là chỉ thị của Mao Trạch Đông, chúng ta đều phải tuân theo.