Một quyển sách
đã truyền cảm hứng cho hơn 350 triệu người
thoái xuất khỏi Đảng Cộng Sản Trung Quốc

Chương 5: Biểu hiện thường thấy của Văn hóa đảng trong tuyên truyền (phần thượng)(audio)


Ảnh: Epoch Times

Mục lục:

Lời mở đầu

1. Không có Đảng Cộng sản thì không có Trung Quốc mới

1) Tiếng hát và lời dối trá

2) Thay đổi bộ mặt khác nhau trong những thời kỳ khác nhau

3) Không có Đảng Cộng sản thì Trung Quốc sẽ ra sao

4) Đảng Cộng sản mang lại điều gì cho Trung Quốc

2. Được cha mẹ yêu không bằng được đảng yêu

1) Các hình thức biểu hiện muôn hình muôn vẻ trong tuyên truyền

2) Tuyên truyền khái niệm đảng là mẹ

3) Nguyên nhân tâm lý của việc nhận giặc làm cha

========

Lời mở đầu

Trung Quốc dưới sự thống trị của Trung Cộng có rất nhiều điều khác thường so với các quốc gia khác. Điều khiến người ta ấn tượng sâu sắc nhất là các loại biểu ngữ, khẩu hiệu bay rợp trời. Cuốn sách “Toàn tập về biểu ngữ Trung Quốc” do cư dân mạng sưu tập đã liệt kê các loại biểu ngữ với những nội dung như kế hoạch hóa gia đình, đả kích tội phạm, trồng cây, cấm phá rừng, phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, v.v.. Ngoài ra còn có các khẩu hiệu chính trị muôn hình muôn vẻ, nội dung thô lỗ, thiếu văn hóa, vô lý đến nực cười, đến mức khiến người ta trố mắt kinh hoàng. Thế nhưng người dân Trung Quốc đã sống mấy chục năm trong hoàn cảnh như vậy, lại còn cho rằng đây là điều bình thường của xã hội nhân loại, trên thế giới có nước nào mà không thế, vậy nên những điều chướng tai gai mắt cũng đã thành quen.

Tại sao Đảng Cộng sản lại coi trọng vai trò của các biểu ngữ, khẩu hiệu trong tuyên truyền đến vậy? Kỳ thực không nằm ngoài hai lý do sau: Một là, chúng đơn giản, dễ đọc, dễ nhớ, có tính hình tượng, có tác dụng trực tiếp, có hiệu quả lâu dài; Hai là, các biểu ngữ, khẩu hiệu thường rất ngắn gọn, không thể chứa đựng những luận chứng phức tạp, cho nên có thể che đậy được những luận điệu giả dối, sai lầm trong tuyên truyền lý luận của nó, khiến người khác khó mà nhận ra.

Có một nhóm khẩu hiệu đã xuất hiện xuyên suốt quá trình lịch sử mấy chục năm đầy bạo lực của Trung Cộng. Nhóm khẩu hiệu này tập trung thể hiện những mục tiêu của Trung Cộng, Trung Cộng đã từng bỏ biết bao công sức liên tục nhồi nhét, đồng thời dùng các hình thức nghệ thuật để tô vẽ và thổi phồng các khẩu hiệu này. Mặc dù cùng với sự thay đổi của hình thế trong nước và quốc tế, những khẩu hiệu này cũng có lúc thay đổi diện mạo, xuất hiện dưới nhiều diện mạo mới, nhưng tinh thần của nó thực chất không hề thay đổi, mục đích của nó chính là nhằm củng cố sự lệ thuộc và phục tùng của người dân đối với Đảng Cộng sản, bảo vệ chế độ chuyên chế một đảng của nó. Nhóm khẩu hiệu này là:

“Không có Đảng Cộng sản thì không có Trung Quốc mới”

“Được cha mẹ yêu không bằng được đảng yêu”

“Phải nghe lời đảng và đi theo đảng”

“Đảng bảo sao thì phải làm vậy”

Trong Chương 3, chúng tôi đã luận bàn về các thủ đoạn đầu độc trí não người dân của Trung Cộng, dù là các công cụ tuyên truyền, các tác phẩm văn học, sách giáo khoa, hay các loại hình nghệ thuật như phim ảnh, kịch nói, ca múa nhạc, dân ca… đều trở thành các công cụ được Trung Cộng sử dụng để nhồi nhét Văn hóa đảng vào đầu người dân. Tất nhiên, tùy theo thời đại hoặc theo hình thái kinh tế, hình thái xã hội lúc đó, người sáng tác có thể sử dụng các chất liệu sáng tác khác nhau để tạo ra các tác phẩm khác nhau, những nhạc cụ này cũng có thể tạo nên những giai điệu vô cùng phong phú, nhưng chủ đề biểu đạt vẫn luôn luôn bám sát bốn câu khẩu hiệu trên. Nếu nhìn một cách cụ thể chủ đề và mục đích biểu đạt của các tác phẩm, có thể thấy bốn câu khẩu hiệu này đã khái quát toàn bộ Văn hóa đảng thường thấy trong tuyên truyền, đó cũng là đề cương chỉ đạo tuyên truyền Văn hóa đảng trong sáng tác nghệ thuật. Nếu muốn hiểu rõ bản chất của Văn hóa đảng được thể hiện muôn hình muôn vẻ trong tuyên truyền, chúng ta cần phân tích kỹ hơn bốn câu khẩu hiệu này.

1. Không có Đảng Cộng sản thì không có Trung Quốc mới

1) Tiếng hát và lời dối trá

“Không có Đảng Cộng sản thì không có nước Trung Quốc mới/ Đảng Cộng sản cần lao vì dân tộc/ Đảng Cộng sản một lòng cứu Trung Quốc/ Đảng vạch ra con đường giải phóng dân tộc/ Đảng lãnh đạo Trung Quốc hướng tới vinh quang/ Đảng kiên trì kháng chiến suốt hơn tám năm/ Đảng cải thiện đời sống của nhân dân/ Đảng đã xây dựng căn cứ địa trong lòng địch/ Đảng đã thực thi dân chủ rất tốt đẹp.”

Bài hát lan truyền rộng rãi ca ngợi Trung Cộng này được sáng tác vào năm 1943, lúc đó lời bài hát là “Không có Đảng Cộng sản thì không có Trung Quốc”. Năm 1950, Mao Trạch Đông đã thêm từ “mới” vào sau từ “Trung Quốc”, cho nên lời bài hát trở thành như ngày nay.

Chữ “mới” được thêm vào này rất có dụng ý. Thứ nhất là người Trung Quốc thời đó đều đã từng sống qua thời Trung Hoa Dân Quốc, nên nếu nói “Không có Đảng Cộng sản thì không có Trung Quốc”, thì trái với lịch sử mà họ đã trải qua, nên khó mà khiến người ta tâm phục. Quan trọng là trong từ điển của Đảng Cộng sản đã đưa ra định nghĩa đối với từ “sự vật mới mẻ”. Nếu như nói rằng thứ gì đó là sự vật mới mẻ, vậy thì nó nhất định phải phù hợp với trào lưu lịch sử, có “sức sống mạnh mẽ và tương lai rộng lớn”. Đồng thời, dù nó có bất cứ thiếu sót nào cũng đều do nó là sự vật mới mẻ nên “chưa trưởng thành”, trong một tương lai không xác định, những thiếu sót này sẽ có thể dần được khắc phục. Đảng Cộng sản chính là dùng cách này để biện hộ cho mình.

Bối cảnh sáng tác bài hát này là vào năm 1942, Tưởng Giới Thạch, lãnh đạo chính phủ Quốc dân đảng tiến hành cuộc kháng chiến toàn diện, đã phát biểu về cuốn sách “Vận mệnh của Trung Quốc”, trong đó có một câu: “Không có Quốc dân đảng thì không có Trung Quốc.” Đảng Cộng sản lúc đó đang tập trung “Chỉnh phong” tại Diên An, đã phản bác lại bằng cách đăng bài xã luận “Không có Đảng Cộng sản thì không có Trung Quốc”, nó tuyên bố rằng “Đảng Cộng sản Trung Quốc mới là lực lượng chủ chốt trong cuộc kháng chiến chống quân Nhật”. Do vậy, nội dung chủ yếu của bài hát này là nói về “Trung Cộng lãnh đạo nhân dân toàn quốc đánh bại quân xâm lược Nhật Bản”.

Ngày càng có nhiều tư liệu lịch sử chứng minh rằng: “Lãnh đạo kháng chiến không phải là mong muốn chủ quan của Trung Cộng, và cũng không phải là sự thực lịch sử khách quan. Vào thời khắc nguy cơ thất bại ngay trước mắt, mối quan tâm thực sự của Trung Cộng là làm sao để thừa cơ khuếch trương lực lượng, cuối cùng giành được chính quyền. Trung Cộng trên danh nghĩa là thành lập “một chiến tuyến kháng Nhật thống nhất dân tộc”, dùng dư luận để mua chuộc lòng người, nhưng lại âm mưu “một phần kháng Nhật, hai phần đối phó với Quốc dân đảng, bảy phần khuếch trương lực lượng của mình”, thậm chí lén lút câu thông với quân Nhật để buôn bán nha phiến kiếm lời. Cần phải nói rằng, cuộc kháng chiến chống Nhật bắt đầu từ sau biến cố ngày 18 tháng 09 năm 1931, diễn ra trong 14 năm, năm 1932 Quốc dân đảng tiến hành “cuộc kháng chiến Tùng Hộ ngày 08 tháng 12”, năm 1933 tiến hành cuộc kháng chiến Trường Thành. Nhưng hai tháng sau biến cố ngày 18 tháng 09, Trung Cộng lại thành lập chính quyền riêng ở Giang Tây [1]. Trung Cộng luôn miệng nói rằng nó “kiên trì kháng chiến suốt tám năm”, nhưng từ năm 1931 đến 1937 nó không hề tiến hành một cuộc kháng chiến nào.


Ảnh: Epoch Times

Cuốn “Niên phổ của Lưu Thiếu Kỳ” xuất bản tại Trung Quốc Đại lục cho thấy, mặc dù là người lãnh đạo cao nhất của Trung Cộng tại Giang Nam, nhưng toàn bộ quân lệnh, báo cáo của Lưu đều không liên quan đến kháng Nhật, mà toàn bộ tập trung vào làm thế nào để công kích và phân hóa quân Quốc dân đảng. Những trận chiến lớn mà Trung Cộng tham gia chỉ có “chiến dịch Bình Hình Quan” và “trận chiến Bách Đoàn”. Nói về “chiến dịch Bình Hình Quan”, Trung Cộng không phải là “người lãnh đạo và quân chủ lực tham gia trận chiến này”, mà chỉ là phục kích bộ đội bổ sung của quân địch. Chiến dịch này được Trung Cộng gọi là thắng lợi lớn đầu tiên kể từ khi cuộc kháng chiến của nó bắt đầu, nhưng trong ghi chép lịch sử của Trung Cộng chưa từng đề cập đến thắng lợi lần thứ hai hay thứ ba, bởi vì Trung Cộng chỉ tham gia có hai trận chiến tương đối lớn mà chiến dịch này là một trong số đó. Còn “trận chiến Bách Đoàn”, trong nội bộ Trung Cộng coi là trái ngược với phương châm chiến lược của Trung Cộng, sau đó nó trở thành một trong những “tội trạng” của Bành Đức Hoài. Trong hội nghị Lư Sơn năm 1959, Mao Trạch Đông một lần nữa dùng sự kiện này để đả kích Bành Đức Hoài, “Một số đồng chí cho rằng để cho quân Nhật chiếm được càng ít đất càng tốt, sau đó chúng ta mới thống nhất rằng, để quân Nhật chiếm được nhiều đất thì mới là yêu nước. Nếu không sẽ biến thành yêu nước của Tưởng Giới Thạch”. “Chúng ta phải làm sao cho quân Quốc dân và quân Nhật Bản đánh nhau một sống hai chết, còn chúng ta thì nhân cơ hội đó mà phát triển lực lượng”. Năm 1972, Thủ tướng Nhật Bản Tanaka đến thăm Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã nói rằng: “Các ông không cần xin lỗi, nếu không có các ông đến (xâm lược) thì cũng không có chính quyền Đảng Cộng sản chúng tôi hôm nay”. Rốt cuộc Trung Cộng tích cực kháng Nhật hay tích cực ủng hộ quân Nhật xâm lược Trung Quốc đây? Chúng ta có thể thấy rõ câu trả lời qua câu nói của Mao.

Những dòng chữ viết trên “Bia kỷ niệm anh hùng dân tộc” của Trung Cộng cũng cho thấy rõ thái độ của Trung Cộng đối với cuộc kháng chiến chống Nhật: “Ba năm nay, những người anh hùng nhân dân đã hy sinh cho cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và cuộc cách mạng dân tộc đời đời bất diệt. Ba mươi năm nay, những người anh hùng nhân dân đã hy sinh cho cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và cuộc cách mạng dân tộc đời đời bất diệt”. Hiển nhiên kẻ bại trận của Trung Cộng chính là Quốc dân đảng, Trung Cộng luôn không muốn nhắc đến cuộc đấu tranh anh dũng và đẫm máu của dân tộc Trung Hoa chống giặc ngoại xâm suốt tám năm. Trên trang mạng “Linh hồn dân tộc” của Cục lưu trữ Quốc gia, Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử Trung ương Đảng, trong danh sách liệt kê những người đã “hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Nhật”, phần lớn họ đều chết trong các trận chiến giữa Trung Cộng với Quốc dân đảng, chỉ có điều họ chết trong thời gian diễn ra cuộc kháng chiến chống Nhật mà thôi. Những cái tên anh hùng quen thuộc với người dân Trung Quốc như Đổng Tồn Thụy, Khâu Thiếu Vân, Hoàng Kế Quang … đều không một ai hy sinh trên chiến trường chống quân Nhật.

So sánh đối chiếu giữa Trung Cộng và Quốc dân đảng có thể thấy rõ, chính phủ Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch, từng bị Mao Trạch Đông mỉa mai là “xuống núi hái đào” (ngụ ý là kẻ hèn nhát, chỉ muốn gặt hái thành quả), thực tế từ năm 1937 đến năm 1945 đã lãnh đạo quân Cách Mạng Quốc dân chiến đấu trực diện với quân Nhật tổng cộng 38.931 trận chiến quy mô nhỏ và 1.117 chiến dịch quy mô lớn, 22 cuộc đại chiến, hy sinh hơn 200 vị tướng lĩnh, bị thương hơn 3,3 triệu người, đã bị quân Nhật gây tổn thất nặng nề trên các chiến trường chính như Đài Nhi Trang, Tùng Hộ, Trường Sa, Độc Sơn…, và trong các trận chiến trên không ở Thượng Hải, Kiển Kiều…, cuối cùng nhờ những nỗ lực cực kỳ gian khổ, quân Quốc Dân đã giành thắng lợi trong cuộc chiến bảo vệ tổ quốc.

Ngày nay, lý tưởng của Đảng Cộng sản đã mất đi khả năng mê hoặc lòng người, nhưng Trung Cộng vẫn rầm rộ phất cao ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc, tự phong nó là đại biểu chính thống của dân tộc Trung Hoa, vì vậy nó nhất định sẽ không buông bỏ danh hiệu vinh quang là “trụ cột vững chắc của cuộc kháng chiến”. Tuy nhiên sự thực lại là, vào lúc cần nhất sự đoàn kết tinh thần của toàn dân tộc để đánh bại quân xâm lược, thì thật đáng xấu hổ Trung Cộng lại quay lưng với tổ quốc và nhân dân.

2) Thay đổi diện mạo vào những thời kỳ khác nhau

“Không có Đảng Cộng sản thì không có Trung Quốc mới”, có lẽ rất nhiều người tưởng rằng câu khẩu hiệu này chỉ tồn tại vào mấy chục năm trước. Nhưng dưới sự tuyên truyền của Trung Cộng, từ “Trung Quốc mới” không còn chỉ nói về “nước Trung Quốc mới” được Trung Cộng thành lập vào năm 1949, mà nó cũng nói về đất nước Trung Quốc trong mọi thời kỳ sau khi Trung Cộng thành lập, vào mỗi thời kỳ khác nhau khẩu hiệu này lại mang nội hàm và biểu hiện khác nhau.

Câu khẩu hiệu này chính là tư tưởng chỉ đạo trong tuyên truyền văn hóa Đảng, các nội dung tuyên truyền cụ thể khác đều lấy nó làm chủ đạo. Trong tuyên truyền người ta sử dụng các biện pháp, hô hào các khẩu hiệu, ca ngợi các việc tốt, phân tích mổ xẻ các loại hiện tượng xã hội, tất cả đều để chứng minh cho câu “Không có Đảng Cộng sản thì không có Trung Quốc mới”.

Chúng ta hãy xem thể hiện của câu khẩu hiệu này trong truyên truyền ở các thời kỳ lịch sử khác nhau:

Từ năm 1949 đến năm 1959: Giai đoạn củng cố chính quyền

Trong các đoàn văn công, đoàn ca hát, diễu hành, biểu ngữ, truyền đơn đều tuyên truyền những nội dung: “Lật đổ ba ngọn núi lớn [2], nhân dân Trung Quốc đã đứng lên, vùng lên giải phóng, công lao thuộc về Đảng Cộng sản”. Trước khi Trung Cộng giành chính quyền, do ngoại địch xâm lược và vì Trung Cộng muốn đoạt lấy chính quyền mà cát cứ vũ trang ở khắp nơi, tạo ra một cục diện loạn lạc trường kỳ, Đảng Cộng sản nhân cơ hội này tuyên truyền sự “ưu việt” của “Trung Quốc mới” đối lập với sự tối tăm của “Trung Quốc cũ”.

Trong cuộc cải cách ruộng đất, đảng tuyên truyền: “Mao chủ tịch là cứu tinh vĩ đại của nhân dân”, “Chỉ có Đảng Cộng sản mới cứu được Trung Quốc”. Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, đảng tuyên truyền “Chống Mỹ giúp Triều, bảo vệ gia đình và đất nước”, ý nói nếu không có Đảng Cộng sản thì Trung Quốc sẽ mất nước. Thực ra, cuộc chiến tranh Triều Tiên là do Kim Nhật Thành chủ động phát động chiến tranh xâm lược Nam Triều Tiên, khiến cho Liên Hợp Quốc phải thông qua nghị quyết để can thiệp, mâu thuẫn hoàn toàn không nhắm vào Trung Quốc. Trung Cộng hoàn toàn bịa đặt khi nói nước Mỹ nhòm ngó Trung Quốc. Mùa thu năm 1950, khi Lâm Bưu cáo ốm từ chối vào Triều Tiên, ông ta đã từng nói: “Nước Mỹ không có ý định xâm lược Trung Quốc, nếu không thì họ đã sớm nhảy vào Trung Quốc trong thời gian ba năm nội chiến rồi”. Vậy mà Trung Cộng đã hy sinh hơn 500.000 binh lính khi tham gia cuộc chiến tranh Triều Tiên, chỉ để nâng đỡ cái chính quyền độc tài Bắc Triều Tiên, một chính quyền giết hại hơn một triệu người dân của nước này. Thế nhưng những cuộc thử nghiệm hạt nhân mà chính quyền này khăng khăng tiến hành hiện nay đã uy hiếp cả đến Trung Quốc.

Ảnh: Epoch Times

Lấy ví dụ câu chuyện “Bạch Mao Nữ”, các tác phẩm văn nghệ đã tuyên truyền so sánh “xã hội cũ” và “xã hội mới” dưới nhiều góc độ khác nhau. Xã hội cũ ám chỉ toàn bộ thời kỳ lịch sử xã hội từ năm 1949 trở về trước, bao gồm cả chế độ của Quốc dân đảng, chính phủ Bắc Dương, triều Thanh cho đến các thời cổ đại xa xôi hơn nữa, còn gọi là thời đại cũ. Họ tuyên truyền rằng “thời đại cũ vô cùng xấu xa”, “hai xã hội cũ và mới là hai thế giới khác nhau”. Lấy ranh giới là năm 1949 khi Trung Cộng thành lập chính quyền, thời kỳ trước đó là phản động, áp bức, đen tối, thối nát, ngu muội, tai họa, khủng bố, phi nghĩa; thời kỳ sau năm 1949 là tiến bộ, giải phóng, quang minh, phúc lợi, tốt đẹp, văn minh, hạnh phúc, hòa bình, chính nghĩa …, một xã hội là “thiên đường”, còn một xã hội là “địa ngục”. Điểm mấu chốt là, nếu như không có Đảng Cộng sản thì không có “xã hội mới” và “Trung Quốc mới”.


Ảnh: Epoch Times

Từ năm 1959 đến năm 1966: Giai đoạn thành lập “Chủ nghĩa xã hội”

Trong cuộc vận động “Đại nhảy vọt” và “Công xã Nhân dân”, đảng tuyên truyền “sản lượng thóc hàng vạn tấn, sản lượng thép tăng vọt, vượt qua Anh quốc trong 10 năm, đuổi kịp Mỹ quốc trong 15 năm”, “nhanh chóng tiến vào Chủ nghĩa Cộng sản”, “toàn dân cùng luyện gang thép”, “lấy gang thép làm chủ đạo”, “Mao chủ tịch muốn chúng ta thực hiện Đại nhảy vọt, Công xã hóa, thực hiện Chủ nghĩa Cộng sản”, “Công xã Nhân dân là chiếc thang để leo lên thiên đường của Chủ nghĩa Cộng sản”.


Ảnh: Epoch Times

Kiểu tuyên truyền này khiến cho người ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Trung Quốc sẽ “mạnh mẽ vươn lên” để thực hiện được cái gọi là “mục tiêu”, việc thực hiện Chủ nghĩa Cộng sản đã không còn xa vời nữa. Cho nên cường quốc Trung Quốc phải dựa vào Đảng Cộng sản, không có Đảng Cộng sản thì không có “Trung Quốc mới” đi theo “Chủ nghĩa Cộng sản”. Cho đến nay, Trung Cộng vẫn không dám công khai thừa nhận rằng, có đến 30-40 triệu người dân Trung Quốc đã chết đói vì cuộc Đại nhảy vọt, nhưng lại bị Trung Cộng dối trá rằng họ bị chết do “ba năm thiên tai mất mùa”.

Từ năm 1966 đến năm 1976: Giai đoạn Cách mạng Văn hóa

Các hình thức tuyên truyền như kịch cách mạng, đội văn nghệ tuyên truyền tư tưởng Mao Trạch Đông, báo chữ lớn, phim ảnh, tranh tuyên truyền, sách giáo dục v.v.. lan rộng khắp toàn quốc, những khẩu hiệu tuyên truyền như “tiếp tục cuộc cách mạng dưới chính quyền giai cấp vô sản chuyên chế”, “sông núi khắp nơi đều nhuộm một màu đỏ”, “giải phóng toàn nhân loại”, “hãy trở thành người đồng hành với sự nghiệp cách mạng vô sản”, “hiến dâng tất cả vì sự nghiệp cách mạng”, “phá trừ mọi tư tưởng cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ, thói quen cũ của giai cấp bóc lột”, “đả đảo toàn bộ ngưu, quỷ, xà, thần”, “thực hiện chuyên chính về kiến trúc thượng tầng của giai cấp vô sản bao gồm mọi lĩnh vực văn hóa”. Thực ra, cái gọi là làm cách mạng vẫn phải dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Ý nghĩa căn bản là phải luôn luôn cảnh giác và thanh trừ mọi ý đồ “phá hoại và lật đổ” của kẻ thù ở khắp mọi nơi, không để cho người dân Trung Quốc quay trở lại “xã hội cũ xấu xa”, “chịu hai tầng áp bức”, củng cố và phát triển cái gọi là “Trung Quốc mới” dưới “chế độ Chủ nghĩa Xã hội” mà Đảng Cộng sản mang đến cho Trung Quốc.

Từ năm 1976 đến năm 1992: Cuộc cải cách mở cửa kinh tế dưới chế độ chuyên chế

Sau khi Cách mạng Văn hóa kết thúc vào năm 1976, Trung Cộng hô hào “bình phản”, “đả đảo bè lũ bốn tên”, “10 năm bạo loạn”, “10 năm tai họa”, “tay sai, tàn dư của bè lũ bốn tên” v.v.. Đứng trước nguy cơ sụp đổ của chế độ Trung Cộng, chúng đã phải dừng việc điên cuồng cướp bóc, phá hoại người dân, nhờ đó mà các tầng lớp xã hội bắt đầu có sự thay đổi và phát triển. Tuy nhiên, đảng lại coi sự phát triển này như là minh chứng cho “khả năng cầm quyền” và quyết tâm “sửa chữa sai lầm” của đảng, chứng minh rằng đảng có khả năng “lập lại trật tự”, đưa Trung Quốc thoát khỏi tình trạng hỗn loạn. Do vậy, việc xây dựng “Trung Quốc mới” vẫn phải dựa vào Đảng Cộng sản.

Sau năm 1979, Trung Cộng tập trung tuyên truyền cải cách kinh tế và mở cửa với nước ngoài. Tư tưởng chỉ đạo là: không có Đảng Cộng sản thì không có tất cả những thay đổi tốt đẹp trong đời sống kinh tế của người dân, nhờ việc Trung Cộng từ bỏ tư tưởng Marx – Lenin – Mao Trạch Đông để chuyển sang “lãnh đạo” các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, xã hội mới chuyển từ trì trệ sang phát triển nhanh chóng, từ đóng cửa chuyển sang mở cửa, tất cả là nhờ công lao của “đại hội Đảng khóa 11 lần 3”. Đảng đã lờ đi sự thực là trước khi Trung Cộng giành chính quyền thì Trung Quốc vẫn luôn thực hiện chính sách mở cửa, sự phong bế của xã hội Trung Quốc hoàn toàn do Trung Cộng gây nên.

Sau năm 1989, Trung Cộng phản đối “tự do hóa”, tuyên truyền tính đúng đắn của sự kiện thảm sát Lục Tứ (ngày 04 tháng 06) ở Thiên An Môn. Thời gian này, kinh tế Trung Quốc sau khi thoát khỏi tầng tầng gông xiềng của Trung Cộng đã từng bước phục hồi, hòa vào trào lưu kinh tế toàn cầu hóa. Điều này lại trở thành cái cớ để chính quyền Trung Cộng giải thích cho tính hợp pháp của nó. Trung Cộng đã chớp lấy cơ hội này để bịa đặt nên thứ logic hỗn loạn, tuyên truyền rằng nếu Đảng Cộng sản không đàn áp phong trào học sinh thì Trung Quốc sẽ bị giải thể, sẽ loạn, sẽ không thể phát triển như ngày nay – vẫn là tuyên truyền rằng Trung Quốc không thể tách rời khỏi Đảng Cộng sản.

Từ năm 1992 đến năm 1999: Giai đoạn kinh tế phát triển

“GDP tăng trưởng”, “Kinh tế vĩ mô được điều tiết”, “Phát triển kinh tế mới là con đường đúng đắn”, “Đấu tranh chống lũ thắng lợi”, “Xin quyền đăng cai thế vận hội Olympic”, “Đưa Hồng Kông trở về với Trung Quốc”, “Đưa Ma Cao trở về với Trung Quốc”, “Tam giảng”, “Mức sống người dân được nâng cao”, các khẩu hiệu này đều tuyên truyền ca ngợi công đức của đảng: Đảng đã bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, lãnh đạo nhân dân xây dựng kinh tế, nâng cao vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế, nâng cao đời sống người dân. Xét cho cùng, nhờ sức tiêu thụ lớn của Trung Quốc, nhờ sự cần cù lao động của người dân Trung Quốc và cũng do sự phá hoại của Trung Cộng đối với kinh tế xã hội suốt mấy chục năm khiến cho giá trị sức lao động của người Trung Quốc bị đánh giá rẻ mạt, những nhân tố đó đã thu hút lượng lớn đầu tư nước ngoài đổ vào Trung Quốc, lại thêm đầu tư lớn cho kinh tế, cái giá phải trả cho cái gọi là kinh tế “tăng trưởng nhanh” chính là tài nguyên thiên nhiên và hệ sinh thái bị phá hoại nghiêm trọng, đạo đức xã hội bị hủy hoại. Khi xã hội hiện nay phần nào đã đáp ứng nhu cầu vật chất của người dân, Trung Cộng lại chớp lấy cơ hội để tiếp tục tung hô cho bản thân nó, như thể là tất cả thành tích đạt được đều chỉ nhờ vào Trung Cộng.


Ảnh: Epoch Times

Từ năm 1999 đến nay

“Tam đại biểu”, “phê phán Pháp Luân Công”, “phát triển trong hòa bình”, “bát vinh bát nhục”, “xã hội ổn định”, “dân giàu nước mạnh”, “kỳ tích kinh tế”, “duy trì tiến bộ”, “chống lại điều sai trái”, “chính sách mới của Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo”, “quan điểm phát triển khoa học”… trên các phương tiện thông tin, Trung Cộng trắng trợn tuyên truyền về đời sống vật chất đầy đủ, GDP tăng trưởng tốt, tuyên truyền lối sống của người giàu, tuyên truyền các dự án bất động sản và các công trình xây dựng. Cái gọi là “cải cách kinh tế” của Trung Cộng thực chất là để giảm bớt mâu thuẫn xã hội, kéo dài sự thống trị của nó, chứ không phải vì sự phát triển lâu dài của quốc gia và dân tộc. Mặt trái của việc kinh tế tăng trưởng nhanh một cách mù quáng đã dẫn đến những bất mãn trong xã hội, như ô nhiễm môi trường, cướp đoạt và phá hủy tài nguyên thiên nhiên đã khiến cho những thảm họa tự nhiên vốn dĩ “hàng trăm năm, hàng nghìn năm mới gặp” nay liên tiếp xảy ra. Sự phát triển không cân đối giữa nông thôn và thành thị, giữa miền Đông và miền Tây đã dẫn đến phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Việc đầu tư ít cho lĩnh vực giáo dục trong thời gian dài, những chính sách bất hợp lý trong lĩnh vực y tế, và sự theo đuổi những ham muốn hưởng thụ vật chất cực đoan khiến cho đạo đức xã hội ngày càng hủ bại, trượt dốc v.v.. Khi những vấn đề mới nảy sinh chồng chất, để kéo dài sự sống Trung Cộng dốc sức tuyên truyền “xã hội ổn định”, “chính sách mới của Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo”, “liên tục phát triển” v.v.. với ý đồ dùng những danh từ mới mang tính “khoa học” và “hiện đại” này để khơi dậy hy vọng vào tương lai của những người dân Trung Quốc vốn đang bất mãn với hiện thực, để họ đắm chìm trong ảo tưởng rằng Trung Cộng đang “quyết tâm” nhổ tận gốc mọi vấn đề: vấn đề của Trung Quốc cuối cùng vẫn phải nhờ Đảng giải quyết.

Đồng thời, Trung Cộng rầm rộ tổ chức các cuộc duyệt binh chào mừng quốc khánh, thông qua mạng Internet và các phương tiện truyền thông để tuyên truyền nó đang củng cố quân đội và vũ khí, hô hào đánh Đài Loan, đánh Nhật Bản, khuếch trương thanh thế của nước lớn. Đảng Cộng sản có ý đồ rõ ràng muốn khoe khoang lực lượng quân đội Trung Quốc, muốn cho người dân thấy rằng nếu không có những điều tốt đẹp mà Đảng Cộng sản đã làm từ khi thành lập chính quyền tới nay thì không có một nước “Trung Quốc mới” hùng mạnh như ngày nay.

3) Không có Đảng Cộng sản thì Trung Quốc sẽ ra sao?

“Không có Đảng Cộng sản thì không có Trung Quốc mới”, một cụm từ thay thế cho câu này là: Đảng Cộng sản lãnh đạo nhân dân Trung Quốc đạt được những thành tựu vinh quang, những thành tựu này nếu như không có sự lãnh đạo của đảng thì không thể trở thành hiện thực. Những thành tựu mà Trung Cộng vẫn thường khoe khoang là: kêu gọi nhân dân Trung Quốc đứng lên giành độc lập dân tộc; xây dựng được thể chế kinh tế quốc dân hoàn chỉnh; giải quyết được vấn đề lương thực cho mấy trăm triệu người dân; xây dựng nên thể chế quốc phòng hùng mạnh, đã trang bị được bom nguyên tử và tàu ngầm nguyên tử; đạt được những bước tiến vượt bậc trong sự nghiệp giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hóa, v.v..

Nhưng trên thực tế, người giành lại độc lập dân tộc thực sự cho Trung Quốc, đưa Trung Quốc trở thành một trong bốn cường quốc thế giới, phế bỏ hiệp ước bất bình đẳng, thu hồi lại Đài Loan lại chính là chính phủ Quốc Dân đảng, thực hiện vào năm 1945. Trước khi Trung Cộng giành chính quyền thì những gì nó làm là chia cắt đất nước và gây ra nội chiến, sau khi giành chính quyền nó tận lực nô dịch nhân dân, khơi mào các cuộc vận động chính trị, bức ép người dân phải quỳ phục trước nó.

Vào trước thời Trung Cộng, hệ thống kinh tế Trung Quốc đã rất quy mô. Năm 1918, các nhà máy đóng tàu ở Giang Nam đã đóng cho Mỹ bốn chiếc tàu vạn tấn, hạ thủy vào tháng 03 năm 1920, được Bộ Vận tải của Mỹ nghiệm thu và đánh giá là chất lượng rất tốt. Năm 1929, nhà máy pháo cối ở Liêu Ninh đã chế tạo ra chiếc ô tô đầu tiên, những phát minh khác như diêm, sơn, máy tiện, thậm chí là chiến hạm, máy bay, v.v.. rất nhiều sản phẩm của ngành sản xuất công nghiệp hiện đại đều đã được sáng tạo từ thời chính phủ Quốc Dân, chính phủ Bắc Dương, thậm chí từ thời nhà Thanh.

Nói về vấn đề miếng cơm manh áo của người Trung Quốc, rốt cuộc ai là người trồng trọt, xây nhà, làm nghiên cứu khoa học? Chẳng phải là nông dân, công nhân, trí thức hay sao? Có ai sống dựa vào Trung Cộng đâu? Lương thực và tài sản của người dân Trung Quốc đều là thành quả của sự chăm chỉ lao động, do bản thân họ kiếm được chứ không phải do sự ban ơn của Trung Cộng. Chúng ta phải hiểu rõ rằng, chính người dân đã nuôi sống chính quyền Trung Cộng, chứ không phải chính quyền Trung Cộng nuôi sống nhân dân. Trung Cộng vô liêm sỉ ở chỗ nó tước đoạt toàn bộ tài sản của chúng ta, cuối cùng trả lại cho chúng ta chỉ một phần nhỏ tài sản mà chúng ta tạo nên, lại còn bắt chúng ta đi cảm ơn nó, bắt chúng ta nói: “Cảm ơn chính sách sáng suốt của đảng”.

Nhìn từ góc độ khác, trong kinh tế học có một danh từ là “chi phí cơ hội”. Nghĩa là khi đứng trước sự lựa chọn, người ta sẽ phải đưa ra một quyết định, những gì họ mất khi đưa ra quyết định này chính là chi phí cơ hội cho thứ mà họ nhận được. Khi Trung Cộng khoác lác về những “thành tựu vĩ đại” của nó, nó thường chỉ so sánh các số liệu theo chiều dọc mà không so sánh theo chiều ngang; thường so sánh với thời kỳ đất nước loạn lạc mà không so sánh với thời kỳ chính trị ổn định; thường chỉ nói về những gì nó làm được mà không đề cập đến những gì nó không làm được. Trong thời gian nửa thế kỷ trở lại đây, nếu so sánh giữa những nước không đi theo Chủ nghĩa Cộng sản với nước Trung Quốc theo Chủ nghĩa Cộng sản, chúng ta sẽ phát hiện ra rằng: nếu như không có Đảng Cộng sản, thì một đất nước Trung Quốc tự do, dân chủ, bằng trí tuệ và sự cần cù của người dân Trung Quốc, có thể đạt được những thành tựu không biết chừng còn huy hoàng gấp mấy lần so với chế độ hiện nay.

Trước tiên, chúng ta lấy ví dụ về lĩnh vực kinh tế. Trung Cộng thường nói Trung Quốc tuy dân số đông nhưng nền tảng của mọi thứ đều yếu kém, vậy chúng ta thử nhìn sang nước láng giềng phía Đông Trung Quốc là Nhật Bản , cũng là nước đông dân và đất đai khô cằn. Mật độ dân số của Nhật Bản là 339,3 người/km2 (số liệu năm 1998), gần gấp ba lần Trung Quốc. Diện tích nước Nhật 71% là đồi núi, đất đai khô cằn, tài nguyên nghèo nàn, điều kiện tự nhiên không có gì thuận lợi. Sau Thế chiến thứ hai, Nhật Bản đã đi lên từ đống hoang tàn của chiến tranh, vậy mà chưa đến 30 năm sau, Nhật Bản không chỉ xóa đi dư âm của chiến tranh, mà còn vượt qua các cường quốc như Anh, Pháp, Đức, Nga, trở thành cường quốc đứng thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ. Từ năm 1955 đến năm 1973, cùng lúc mà đất nước Trung Quốc long trời lở đất bởi các cuộc vận động chính trị hết lần này đến lần khác do Đảng Cộng sản phát động, Nhật Bản với tổng sản phẩm quốc nội bình quân hàng năm liên tục đạt tốc độ tăng trưởng 10% trong suốt 18 năm, được thế giới gọi là “kỳ tích kinh tế Nhật Bản”.

Dân số Ấn Độ và Trung Quốc đều thuộc hàng cao nhất nhì thế giới. Những năm 1980, gần như cùng lúc với thời kỳ Trung Cộng bắt đầu cải cách mở cửa, Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của tổng thống Rajiv Gandhi đã bắt đầu cải cách tự do theo đường lối ôn hòa. Bắt đầu từ năm 1991, Ấn Độ tăng tốc độ cải cách, từ năm 1980 đến 2002, kinh tế Ấn Độ bình quân tăng trưởng 6%/năm, từ năm 2002 đến 2006 bình quân tăng 7,5%/năm, tốc độ này đã gần với con số 8% mà Trung Cộng đưa ra. Nhưng tất cả các khoản nợ xấu trong ngân hàng Ấn Độ chỉ chưa đầy 2%, thấp hơn nhiều so với Trung Quốc; hệ số Gini [3] của Ấn Độ là 0,33 còn hệ số Gini của Trung Quốc cùng thời gian đó có khả năng đạt đến 0,5 đến 0,6. Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chủ yếu nhờ vào vốn đầu tư lớn để khai thác tài nguyên, còn sự tăng trưởng GDP của Ấn Độ chủ yếu dựa vào nâng cao năng lực sản xuất, chứ không dựa vào tăng vốn đầu tư hay sức lao động. Ấn Độ đã trở thành một mô hình tăng trưởng kinh tế độc đáo, khác hẳn với các nước Đông Á, nhất là với Trung Quốc. Ấn Độ phát triển chủ yếu dựa vào thị trường trong nước chứ không xuất khẩu, dựa vào tiêu dùng chứ không phải đầu tư, dựa vào ngành dịch vụ chứ không phải ngành công nghiệp, dựa vào ngành công nghiệp chế tạo công nghệ cao chứ không phải công nghệ thấp. Theo các chuyên gia, mô hình phát triển kinh tế của Ấn Độ mang lại nhiều lợi ích hơn cho người dân.

Quân sự và quốc phòng cũng là những chủ đề mà Trung Cộng thường xuyên khoe khoang. Người xưa có câu “Binh giả vi hung khí, thánh nhân bất đắc dĩ nhi dụng chi” (Kẻ cầm quân dựa vào vũ khí, bậc thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng đến vũ khí). Trong Binh pháp Tôn Tử có câu: “Bất chiến nhi khuất nhân chi binh, thiện chi thiện giả dã. Cố thượng binh phạt mưu, kỳ thứ phạt giao, kỳ thứ phạt binh, kỳ hạ công thành” (Không cần đánh mà làm kẻ địch khuất phục mới gọi là sáng suốt nhất trong sự sáng suốt. Cho nên thượng sách trong việc dùng binh là lấy mưu lược để thắng địch, kế đó là thắng địch bằng ngoại giao, kế nữa là dùng binh thắng địch, hạ sách là tấn công thành trì). Xuất phát điểm của Trung Cộng là từ triết học đấu tranh, mấy chục năm nay nó không ngừng tuyên truyền tư tưởng chiến tranh ngông cuồng của mình, “Đại chiến Thế giới lần thứ ba là không thể tránh khỏi”, “Trung – Mỹ phải có chiến tranh”. Để hóa giải mâu thuẫn trong nước, mánh khóe thống trị mà nó quen dùng chính là dựng nên cái gọi là thế lực thù địch nước ngoài. Kỳ thực, chính quyền Trung Cộng mới là kẻ thực sự nhiệt tình “xuất khẩu cách mạng”, châm ngòi đấu tranh khắp nơi, chỉ e thiên hạ không đủ loạn. Để nghiên cứu chế tạo đầu đạn hạt nhân đầu tiên, Trung Cộng đã tiêu tốn khoảng 4,1 tỷ USD (theo tính toán vào năm 1957). Có người làm một bài toán, nếu dùng số tiền này để mua lương thực thì có thể cứu sống được 40 triệu người bị chết đói trong nạn đói năm đó. Nếu như mục đích của quốc phòng là để bảo vệ người dân, vậy thì loại quốc phòng làm hại chết người dân này có ý nghĩa gì đây? Dốc hết binh lực cho chiến tranh mà không quan tâm đến sự sống chết của người dân như vậy có đáng không? Chí ít thì việc chế tạo được một chút vũ khí cũng không phải là thứ để khoe khoang trước mặt người dân. Vả lại, những quốc gia không có Đảng Cộng sản lẽ nào lại không xây dựng lực lượng quốc phòng?

Giáo sư Minh Cư Chính thuộc khoa chính trị học trường đại học quốc lập Đài Loan từng đưa ra một giả thuyết rất thú vị và có tính gợi mở. Ông nói, nếu như sau năm 1949, chính quyền Đại lục nghe theo lời dạy của Tôn Trung Sơn, đi theo con đường Chủ nghĩa Tam Dân [4], thì tình hình Trung Quốc sẽ như thế nào?

“Năm 1949 đến năm 1952 sẽ không có năm cuộc vận động lớn, Trung Quốc cũng sẽ không đánh nhau với Mỹ, và cũng sẽ không bị Mỹ cấm vận, … cũng không phải tiến hành cuộc vận động Đại nhảy vọt,… rất nhiều sự việc trong thời gian đó cũng sẽ không xảy ra, Ba ngọn cờ hồng [5], Đại nhảy vọt, Công xã Nhân dân đều sẽ không xảy ra, sẽ không có 30-40 triệu dân Trung Quốc phải chết đói … tất nhiên quan trọng hơn là sẽ không nổ ra cuộc Cách mạng Văn hóa. Đến thập niên 1970, kinh tế sẽ tiếp tục phát triển, người dân sẽ ngày càng thịnh vượng… Nếu đảng tiếp tục thực hiện theo chủ nghĩa Tam Dân, thì đến những năm 1980, nhu nhập bình quân của người dân Trung Quốc có thể đạt khoảng 4000 – 5000 USD. Đến nay, thu nhập bình quân đầu người hẳn phải bằng một nửa của Mỹ rồi, và tổng thu nhập quốc dân của Trung Quốc sẽ gấp hơn hai lần của Mỹ. Không nghi ngờ gì, Trung Quốc sẽ là cường quốc số một thế giới. Cũng có nghĩa là, nếu Trung Quốc Đại lục đi theo con đường của Tôn Trung Sơn mà không phải là con đường Chủ nghĩa Cộng sản thì Trung Quốc sớm đã khởi sắc rồi”.

Trung Quốc cổ đại có câu thành ngữ: “Hưu dưỡng sinh tức” (nghỉ ngơi mới có sức). Nghĩa là chính phủ nên giảm bớt hình phạt, thu thuế ít, giảm nhẹ lao dịch, cho người dân được nghỉ ngơi, nói đơn giản là chính phủ không hành hạ người dân nữa. Người dân Trung Quốc cần cù, dũng cảm, chỉ cần xã hội công bằng, không có các cuộc vận động, không chịu sự chỉ đạo mù quáng, thì người dân sẽ tự biết xoay sở để có cuộc sống sung túc hơn. Trung Cộng vẫn tự nói rằng, sau khi nạn đói ba năm giết chết mấy chục triệu người và Cách mạng Văn hóa kết thúc, nền kinh tế quốc dân đã ở bên bờ vực sụp đổ. Nếu không phải do bị Trung Cộng giày xéo suốt mấy chục năm, thì chí ít là từ 30 năm trước người dân Trung Quốc đã có thể có cuộc sống tốt đẹp hơn rồi. Hiện nay, sự chuyên chế, hủ bại, lãng phí của Trung Cộng kéo theo đó là trật tự xã hội rối loạn và đạo đức xã hội bại hoại đã gây trở ngại to lớn cho sự phát triển của Trung Quốc. Trung Cộng tự thừa nhận rằng, mỗi năm nó chi tiêu công cần 200 tỷ nhân dân tệ, chi phí xe công 300 tỷ nhân dân tệ, chi phí ra nước ngoài công 200 tỷ nhân dân tệ. Ngân hàng Thế giới thống kê trong thời gian từ những năm 1975 đến 1995, các quyết định đầu tư sai lầm của Trung Quốc chiếm khoảng 30%, làm lãng phí 400-500 tỷ nhân dân tệ, ngay đến Ngô Bang Quốc còn tự phát biểu rằng: “Sự lãng phí lớn nhất của nước ta không gì khác chính là đưa ra các quyết sách sai lầm”. Còn có hàng triệu quan chức, đảng viên các cấp lớn nhỏ không biết đã làm lãng phí bao nhiêu tiền của dân. Người dân ở các quốc gia thông thường nộp thuế để nuôi chính phủ, còn người dân Trung Quốc ngoài việc phải nuôi chính phủ còn phải nuôi cả bộ máy đảng khổng lồ với lòng tham không đáy, cho nên người dân mới không thể kham nổi.

Nhưng tại sao người ta lại cảm thấy rằng không có Đảng Cộng sản thì người Trung Quốc sẽ không biết phải làm thế nào? Thứ nhất, đây là do vấn đề tâm lý. Thông qua tuyên truyền, Đảng Cộng sản đã tạo nên sự hiểu lầm lẫn lộn các khái niệm đảng, dân tộc với quốc gia, đảng mà mất thì nước cũng không còn, cũng giống như đứa trẻ chưa từng rời xa mẹ, nó không dám tưởng tượng ra cảnh không có mẹ bên cạnh thì sẽ ra sao. Nhưng vấn đề là Đảng Cộng sản chưa từng là mẹ của chúng ta, mà nó là một phụ thể bám chặt vào dân tộc Trung Hoa. Thứ hai, Trung Cộng đã cướp lấy tất cả tài nguyên và của cải, khiến cho người ta lầm tưởng rằng phải dựa vào Trung Cộng mới có thể quản lý quốc gia. Thực tế là không có Trung Cộng, người Trung Quốc vẫn là người Trung Quốc, nước Trung Quốc nên quản lý thế nào thì vẫn quản lý như thế. Xã hội Trung Quốc mấy nghìn năm trước dù không có Đảng Cộng sản, chẳng phải vẫn phát triển tốt hay sao?

Mặt khác, người ta vẫn lo lắng rằng nếu không có Đảng Cộng sản thì quốc gia có thể bạo loạn, chi bằng hiện giờ sống dựa vào nó. Nhìn bề ngoài thì đây là một biện pháp để tránh bạo loạn. Nghĩ kỹ một chút sẽ phát hiện ra, chính sự thống trị của Trung Cộng mới là nguồn gốc của bạo loạn, sự thống trị của Trung Cộng đã châm ngòi cho những mâu thuẫn gay gắt, nó đang dồn ép tạo nên sự bất mãn của xã hội, có thể nói rằng dưới sự thống trị của Trung Cộng thì viễn cảnh bạo loạn là điều tất yếu của lịch sử. Hiện giờ việc duy trì Trung Cộng không những không thể tránh khỏi bạo loạn mà chỉ khiến cho bạo loạn càng xảy đến nhanh hơn, khiến cho sức tàn phá của nó càng mạnh mẽ hơn mà thôi. Các biện pháp giải cứu tạm thời cho những vấn đề của Trung Quốc ngày nay đã hoàn toàn bị Trung Cộng chặn hết rồi, bởi vì những biện pháp giải cứu tạm thời này đều có thể uy hiếp đến sự thống trị của Trung Cộng. Chỉ khi không còn nhân tố của Đảng Cộng sản, mới có thể thảo luận về những vấn đề của Trung Quốc một cách công bằng, chính xác, không lo hậu quả về sau, công cuộc cải cách mới có thể được tiến hành toàn diện theo đúng quỹ đạo. Vậy nên, việc cấp bách lúc này là giải thể Trung Cộng, để các việc khác được tiến hành thuận lợi, chứ không phải cứ mê muội vào vấn đề “không có Đảng Cộng sản thì Trung Quốc sẽ ra sao”.

“Không có Đảng Cộng sản thì Trung Quốc sẽ ra sao” bản thân câu hỏi này đã rất vô lý rồi. Cuối thế kỷ trước, Chủ nghĩa Cộng sản đã sụp đổ trên toàn thế giới, các quan chức cấp cao Trung Cộng đều nói rằng Đảng Cộng sản sẽ sụp đổ trong “không quá 10 năm”. Năm 2004, Nhân dân nhật báo cao giọng phát biểu bài xã luận rằng Đảng Cộng sản sẽ “nắm quyền thêm 20 năm nữa”, có thể thấy rằng Đảng Cộng sản tự nó tính toán rất lạc quan cũng chỉ bất quá “20 năm”. Người ta chẳng phải cũng hay nói rằng: “20 năm nữa, Trung Quốc thể nào cũng có dân chủ” hay sao? Hiển nhiên là người ta đã sớm công nhận rằng Đảng Cộng sản sẽ sụp đổ. Vậy thì, vấn đề “Không có Đảng Cộng sản thì Trung Quốc sẽ ra sao” chẳng phải là thừa sao?


Ảnh: Epoch Times

Do vậy, vấn đề đặt ra không phải là “Đảng Cộng sản có nên sụp đổ không”, mà là vấn đề “Làm thế nào để Đảng Cộng sản sụp đổ”. Cách hỏi rõ ràng hơn là “Làm thế nào để Đảng Cộng sản sụp đổ mà không gây nên bạo loạn xã hội”, dựa vào các thủ đoạn bạo lực cách mạng hiển nhiên là không ổn. Bạo lực chỉ mang lại nhiều bạo lực hơn, sự thống trị của Đảng Cộng sản đã gây nên gián đoạn về văn hóa và tâm lý con người, chỉ có thể làm cho mọi người thực sự hiểu đúng về Đảng Cộng sản mới có thể tránh được đi vào vết xe đổ của nó. Hiện giờ phong trào thoái đảng dấy lên ở Trung Quốc là cách tốt nhất mà người ta có thể nghĩ ra được. Quá trình thoái xuất khỏi Trung Cộng là quá trình mà người dân thức tỉnh, chính là quá trình chấp nhận sự thực rằng Trung Cộng sắp sụp đổ, cũng là quá trình để các thế lực mới phát triển, và trong quá trình phát triển họ tự giác phân rõ giới hạn với các nguyên tắc bạo lực của Đảng Cộng sản. Chỉ khi tâm hồn của người Trung Quốc thực sự được giải phóng, người dân có lý trí, thì Trung Quốc mới có thể ổn định bước qua thời quá độ.


Ảnh: Epoch Times

Không ít chính khách phương Tây cũng lo sợ Trung Cộng sụp đổ, lo lắng rằng nếu Trung Quốc xuất hiện bạo loạn thì sẽ xung động đến trật tự thế giới, do đó họ hy vọng “thế giới bảo vệ Trung Cộng”, giúp đỡ Trung Cộng duy trì chính quyền. Hiển nhiên hành động này rất thiển cận và thiếu lý trí. Bởi vì dưới sự thống trị của Đảng Cộng sản, Trung Quốc chắc chắn sẽ xảy ra nhiều vấn đề mâu thuẫn, mà nếu mẫu thuẫn bùng phát thì vấn đề sẽ càng lớn, lúc đó hối hận cũng đã muộn.

Không có Trung Cộng, Trung Quốc sẽ càng tốt hơn. Vậy thì có Đảng Cộng sản, Trung Quốc rốt cuộc sẽ thế nào?

4) Đảng Cộng sản mang lại điều gì cho Trung Quốc?

Nhìn lại lịch sử một thế kỷ gần đây, chúng ta có thể thấy Trung Cộng tự tung hô nó đã “lật đổ ba ngọn núi lớn”, “lãnh đạo nhân dân vùng lên giải phóng”, kỳ thực nó mới là ngọn núi nặng nề nhất đè lên đầu người dân Trung Quốc.

Lịch sử của Trung Cộng là lịch sử của những cuộc đấu tranh bạo lực, đấu tranh tư tưởng và đấu tranh giành quyền lực, hết cuộc vận động này đến cuộc vận động khác, “Trấn phản”, “Túc phản”, “Tam phản”, “Ngũ phản”, các cuộc phê bình tư tưởng, cải tạo chủ nghĩa xã hội, “Phản hữu”, “Đại nhảy vọt”, “Phản hữu khuynh”, “Tứ thanh”, “Phân quyền tạo phản”, “Thanh giai”, nhất đả tam phản, phê Lâm phê Khổng, Đại Cách mạng Văn hóa, phong trào phê phán Đặng Tiểu Bình phản kích cánh hữu lật lại bản án, phản tự do hóa, sự kiện Lục Tứ, đàn áp Pháp Luân Công,… Mỗi cuộc vận động đều khiến cho quốc gia và nhân dân hao tổn nguyên khí lớn. Chính quyền Trung Cộng đẩy nhân dân Trung Quốc vào tình trạng nô dịch chưa từng có từ trước tới nay, bất cứ chính quyền nào không phải Đảng Cộng sản đều không thể gây ra những thảm họa trầm trọng đến như vậy cho dân tộc Trung Hoa.

Bán lãnh thổ đất nước

Ngày 09 và 10 tháng 12 năm 1999, nhân chuyến viếng thăm Bắc Kinh của tổng thống Nga, người đứng đầu Đảng Cộng sản Giang Trạch Dân đã ký kết với tổng thống Nga Boris Yeltsin “Nghị định thư giữa Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Chính phủ Liên bang Nga về vấn đề hai bờ Đông Tây biên giới Nga – Trung”, “khu vực Ngoại Hưng” bao gồm Ngoại Hưng An Lĩnh ở phía Nam và Hắc Long Giang ở phía Bắc, “khu vực Ô Đông” gồm Ô Tô Lý Giang ở phía Đông và còn có ít nhất hơn 1 triệu km2 lãnh thổ Trung Quốc bị xâm chiếm bất hợp pháp ở khu vực Đường Nỗ Ô Lương Hải gồm cả đảo Khố Hiệt, đã chính thức được đưa vào bản đồ nước Nga. Tháng 05 năm 2001, Giang Trạch Dân và Boris Yeltsin lại ký kết hiệp ước nhượng lại phần lãnh thổ đang có tranh chấp rộng 27.000 km2 cho Boris Yeltsin.


Ảnh: Epoch Times

Để đổi lấy sự hỗ trợ của thế lực nước ngoài nhằm củng cố quyền lực, Giang Trạch Dân đã âm thầm chấp nhận một loạt những điều ước bất bình đẳng giữa Nga – Trung đã bị vô hiệu theo Công ước Viên, cống nộp cho Nga một phần lớn lãnh thổ quốc gia đáng lẽ hoàn toàn có thể được trả về cho Trung Quốc như Hồng Kông, Macao, cắt đứt con đường phát triển sinh tồn của dân tộc Trung Hoa. Các quan chức cấp cao của Trung Cộng ý thức được rằng tội ác bán nước của Giang một khi bị bại lộ thì tất yếu sẽ nguy hại đến sự thống trị của Trung Cộng, do đó đành phải vào hùa với Giang để cật lực che đậy sự thật.

Phá hoại môi trường

Đảng Cộng sản điên cuồng vô độ, coi thường tất cả quy luật tự nhiên. Trong 30 năm kể từ khi giành chính quyền, nó “đấu với trời, đấu với đất, đấu với người”, không khiến kinh tế phát triển, mà chỉ khiến cho môi trường tự nhiên bị phá hoại nghiêm trọng. Sau cải cách mở cửa, nó lại theo đuổi việc tăng trưởng kinh tế một cách phiến diện, chỉ chạy theo lợi trước mắt, thu không đủ chi, khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên. Trung Quốc hiện giờ là một trong những quốc gia có mức độ ô nhiễm nghiêm trọng nhất thế giới, môi trường sinh thái mà Đảng Cộng sản để lại khiến các thế hệ con cháu đời sau của dân tộc Trung Hoa gần như không thể sinh sống được.

Tổng cục Bảo vệ Môi trường của Trung Cộng thừa nhận, hiện tại các khu vực bị mưa axit xâm lấn chiếm 1/3 diện tích toàn quốc; ô nhiễm không khí khiến hơn 400 triệu cư dân thành thị phải hít thở không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng, 15 triệu người vì thế mà bị mắc các bệnh về khí quản và bệnh ung thư đường hô hấp; ô nhiễm nước khiến cho sự thiếu hụt nguồn nước sạch càng thêm trầm trọng, nước ở hệ thống sông hồ thiếu 5 loại khoáng chất chiếm 41% (Ghi chú: nước thiếu 5 loại khoáng chất thì đã mất đi công dụng của nước, thậm chí không phù hợp cho tưới tiêu); 360 triệu người ở nông thôn phải uống nước không an toàn, trên 90% sông ở thành thị bị ô nhiễm nghiêm trọng; các thôn xóm bị ung thư do ô nhiễm trải dài từ vùng Tân Cương ở miền Tây sang Hắc Long Giang ở miền Đông, phía Nam đến Vân Nam, Quảng Đông, phía Bắc đến Nội Mông Cổ, gần như bao phủ toàn quốc; Trung Quốc còn có trên 90% thảo nguyên tự nhiên bị thoái hóa, mỗi năm thoái hóa thêm 2 triệu héc ta đồng cỏ; tổng diện tích sa mạc và hoang mạc lên đến 1,7 triệu km2, mỗi năm tăng thêm 3.436 km2, tương đương với mỗi năm mất đi một huyện lớn; do đất canh tác bị chiếm dụng, hiện tại tổng số nông dân Trung Quốc bị mất đất khoảng 40 triệu người, con số này mỗi năm còn tăng thêm hơn 2 triệu người.

Xét về diện tích đất và lượng tài nguyên thiên nhiên bình quân trên đầu người, Trung Quốc vốn đã đứng hàng cuối trên thế giới. Theo xu hướng phát triển như hiện nay, trong tương lai không xa, Trung Quốc sẽ không còn đất canh tác, không còn nước uống, không còn đủ không khí sạch để thở, điều này hoàn toàn không phải chuyện giật gân. Mặc dù quan chức Trung Cộng hiện giờ vẫn lớn tiếng “duy trì phát triển”, nhưng Trung Cộng vốn dĩ chỉ nhìn vào mục tiêu trước mắt là duy trì sự thống trị của nó, chắc chắn rằng đây chỉ là một danh từ mới để tô điểm cho bộ mặt của nó mà thôi. Đến nay, rất nhiều thảm họa tự nhiên ở Trung Quốc đã gần như không thể khống chế được, đây là thảm họa của cả dân tộc.

Tàn sát nhân dân Trung Quốc

Từ khi nắm quyền đến nay, Trung Cộng đã giết hại 40 triệu người dân trong các cuộc vận động chính trị liên tiếp, cộng thêm 40 triệu người bị chết trong ba năm nạn đói, Trung Cộng đã hại chết 80 triệu người dân Trung Quốc. Các học giả trong và ngoài nước căn cứ theo các tài liệu lịch sử đã được công bố, qua nhiều lần thống kê nghiên cứu, cuối cùng đã tính toán ra được con số này. Bởi vì con số mà các cấp chính quyền Trung Cộng công bố đa phần đều đã giảm bớt đi, cho nên con số thực tế chỉ có thể nhiều hơn nữa, chứ không thể ít hơn.

Có người nói, Trung Cộng bị ép phải giết người. Cách nói này không đáng để bắt bẻ. Khi Trung Cộng mới xây dựng chính quyền, trải qua bao nhiêu năm đấu tranh, người dân Trung Quốc rất tin tưởng và hy vọng vào chính quyền mới. Trung Cộng hoàn toàn có thể đại xá thiên hạ, hoàn thiện chế độ hiệp thương chính trị và thể chế pháp luật, và tập trung vào phát triển kinh tế. Nhưng Trung Cộng lại bắt đầu giết chóc trên diện rộng, điên cuồng phát động các cuộc vận động chính trị, dựa vào giết chóc để tạo nên sự khủng bố, muốn xây dựng một chế độ độc tài, các đảng phái dân chủ nhanh chóng trở thành bình hoa chính trị.

Còn có người nói, Trung Cộng giết người vì lý tưởng, Mao Trạch Đông vì muốn xây dựng chế độ chủ nghĩa xã hội mọi người đều bình đẳng, nên cần phải trả một cái giá nhất định. Cách nói này càng dối trá, Hitler, Tojo Hideki [6] giết người lẽ nào không phải vì cái mà họ gọi là “lý tưởng” sao?

Cũng có người nói, những sự việc này đều đã qua rồi, Trung Cộng chẳng phải không còn giết người nữa rồi sao? Không, Trung Cộng chưa từng ngừng việc giết người, chỉ có điều trước đây nó giết người một cách gióng trống mở cờ, bây giờ là giết người một cách lén lút. Trước đây mục đích giết người của nó nhằm tạo ra khủng bố, từ đó duy hộ quyền lực độc tài của nó; bây giờ lại là biến việc giết người thành ngành công nghiệp phức tạp, ví dụ như bức hại Pháp Luân Công, mổ cướp nội tạng của các học viên Pháp Luân Công bán cho các bệnh nhân trong và ngoài nước với giá cao, thu lợi nhuận khổng lồ.

Cướp bóc, lãng phí của cải

Trung Cộng hiện nay lấy tốc độ tăng trưởng GDP mỗi năm 8% làm căn cứ hợp pháp cho sự cầm quyền của nó. Một số ít thành phố dựa vào chính sách đặc thù và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo nên cảnh tượng phồn vinh những tòa nhà cao ốc san sát nối tiếp nhau. Nhưng nếu chúng ta chuyển tầm nhìn từ các thành phố lớn đến nông thôn, từ duyên hải vào nội địa, từ giai cấp hưởng nhiều lợi ích sang tầng lớp bình dân thành thị và nông dân vốn chiếm 80% dân số Trung Quốc, thì chúng ta sẽ phát hiện ra sự nghèo khổ, nghèo khổ đến kinh ngạc, vẫn là một thực tại đáng sợ ở Trung Quốc.

Không phải Trung Quốc từ trước đến giờ vẫn luôn nghèo như vậy. Cho đến trước thời trung kỳ nhà Thanh, kinh tế Trung Quốc vẫn chiếm vị trí hết sức quan trọng trên thế giới. Tổng giá trị sản xuất quốc dân vào thời vua Càn Long nhà Thanh chiếm 51% toàn thế giới, vượt xa rất nhiều tỉ trọng hiện nay (4%). Mặc dù thời kỳ dân quốc Trung Quốc bạo loạn liên miên, nhưng chính phủ quân phiệt Bắc Dương vẫn tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế 25%. Vậy thì sự giàu có của Trung Quốc rốt cuộc đã đi đâu mất?


Ảnh: Epoch Times

Điều này phần lớn là do sự cướp bóc và lãng phí của Trung Cộng. Sau khi Trung Cộng nắm quyền, thông qua cải tạo công thương nghiệp và công xã hóa nhân dân, chỉ trong vài năm đã tập trung hết tài sản của nhân dân vào tay giai cấp nắm quyền lực của Trung Cộng, với cái tên mỹ miều là “chế độ công hữu”. Nó lừa gạt cưỡng đoạt, không từ thủ đoạn nào.

Không chỉ vậy, mấy chục năm nay, những chính sách vô cùng ngu muội cùng sự lãng phí, sự cướp bóc của các quan chức Trung Cộng, đã hao tổn rất nhiều tài sản quốc dân, làm cho đất nước chúng ta nghèo khổ đến cùng cực. Ví dụ, Trung Cộng khi mới lên nắm quyền đã phát động cái gọi là “chống Mỹ giúp Triều”, tổng cộng đã tiêu tốn 50-60 tỷ USD, lúc đó một nửa thu nhập của quốc dân được dùng vào cuộc chiến tranh Triều Tiên; cuộc Đại nhảy vọt vào thập niên 60 của thế kỷ trước không chỉ khiến cho mấy chục triệu người tử vong, mà còn gây ra sự tổn thất trực tiếp về kinh tế cho Trung Quốc ước tính hơn 120 tỷ USD (tính theo giá của thời đó, giống như dưới đây); 10 năm Cách mạng Văn hóa khiến cho kinh tế Trung Quốc tổn thất ít nhất 500 tỷ USD (con số này vẫn chưa tính đến những hậu quả to lớn khi vô số sách và văn vật bị tổn thất, tư tưởng con người bị sự trói buộc, cùng với sự băng hoại đạo đức của toàn xã hội và thể chế pháp luật, và còn những tổn thất gián tiếp khó tính toán được như 10 triệu hộ gia đình bị tịch thu, 20 triệu người bị phê bình, đánh đập tàn nhẫn, 100.000 người bị ép tự sát v.v..), con số này vượt quá tổng tài sản cố định trong 30 năm từ 1949 đến 1979; lấy tư tưởng chỉ đạo của Mao “Đại chiến Thế giới đánh sớm tốt hơn là đánh muộn”, cuộc đại chuyển dịch công nghiệp “ba tuyến công trình” đã gây ra tổn thất kinh tế 600 tỷ USD.

Từ thập niên 80 trở lại đây, sự phát triển kinh tế của Trung Quốc hoàn toàn do kết quả của việc Trung Cộng nới lỏng sự khống chế, cộng với sự chăm chỉ lao động của người dân, chứ không phải cái mà Trung Cộng khoe khoang là “chiến tích chính trị” của nó. Nhưng đằng sau sự phồn vinh này còn ẩn chứa những nguy cơ tiềm tàng. Mô hình phát triển kinh tế tiêu hao nhiều năng lượng, tỷ lệ thất nghiệp cao, khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng (các chuyên gia tính toán hiện tại hệ số Gini tính khoảng cách thu nhập của người dân thành thị Trung Quốc khoảng 0.5-0.6, vượt xa giới hạn cảnh báo hệ số này theo quy định của Liên Hợp Quốc), tổn thất tài sản quốc hữu quy mô lớn (Trung Cộng thừa nhận năm 2004 tổn thất lên đến 352.1 tỷ nhân dân tệ) và tham quan vơ vét bỏ trốn (Báo Pháp chế buổi tối ngày 16 tháng 08 năm 2004 đưa tin, theo Bộ Công thương lần đầu công bố: Trung Quốc hiện có hơn 4.000 tham quan bỏ trốn, số tiền vơ vét tổng cộng lên đến 50 tỷ USD), đang đẩy nền kinh tế yếu ớt của Trung Quốc đến giới hạn của sự sụp đổ. Đã thế còn góp gió thành bão, Trung Cộng lại ra sức phát động cuộc đàn áp Pháp Luân Công, nó đã đem số tiền khổng lồ của quốc gia dùng vào việc đàn áp những người dân vô tội.


Ảnh: Epoch Times

Hủy hoại đạo đức

Người ta hiện nay đã quá quen thuộc với những biểu hiện suy đồi về đạo đức trong xã hội như quan chức tham ô hủ bại, quan chức cấu kết với con buôn, cảnh sát cấu kết với trộm cướp, mại dâm, cờ bạc, ma túy thịnh hành, hàng giả tràn lan, khủng hoảng niềm tin v.v.. Một hình thức biểu hiệu khác của sự suy đồi đạo đức, tuy khá kín đáo nhưng tính nguy hại còn lớn hơn, đó chính là: ngay cả tiêu chuẩn đạo đức cũng cùng nhau tuột dốc, người ta dùng cái tiêu chuẩn đạo đức đã bị tuột dốc kia mà đo lường hành vi của bản thân, lại còn cảm thấy bản thân mình rất tốt. Kỳ thực, xã hội Trung Quốc đã trượt đến điểm tận cùng của sự suy đồi đạo đức rồi.


Ảnh: Epoch Times

Tình trạng này hoàn toàn là do Đảng Cộng sản gây nên. Trung Cộng nhồi nhét vào đầu người dân Thuyết vô Thần, Thuyết duy vật, Thuyết tiến hóa và quan niệm đấu tranh mạnh được yếu thua, phê phán Thuyết hữu Thần và tất cả tư tưởng chính thống, nó đã hủy hoại triệt để nền tảng đạo đức của người Trung Quốc. Đảng Cộng sản cho rằng, đạo đức là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, cuối cùng để phục vụ cho giai cấp thống trị, từ đó phủ nhận các chuẩn mực đạo đức phổ quát. Mặc dù Trung Cộng cao giọng hô hào “pháp trị”, khiến người dân nhầm tưởng rằng tình hình trước mắt là do hệ thống pháp luật chưa kiện toàn gây nên. Nhưng nền tảng của pháp trị là đạo đức, đối với một người không có bất cứ ước chế đạo đức nào thì dù có pháp luật họ cũng không tuân theo. Trung Cộng ngự trị ở trên pháp luật, nó không chỉ cho phép phá vỡ việc thực thi pháp luật, mà còn chuyên đặt ra những quy định tà ác để bức hại người dân lương thiện. Trung Cộng dùng chế độ pháp luật để hợp lý hóa những lời dối trá, quan chức nói một đằng làm một nẻo, nếu không thì không cách nào tồn tại ở chốn quan trường. Người dân đều thấy được hết, tâm lĩnh thần hội, ăn được tội gì không ăn, lấy được tội gì không lấy, anh xấu tôi còn xấu hơn anh, đạo đức xã hội trượt dốc hàng ngàn dặm mỗi ngày.

Trong sách “Quản tử” [7] viết: “Lễ nghĩa liêm sỉ, quốc chi tứ duy; tứ duy bất trương, quốc nãi diệt vong” (Lễ nghĩa liêm sỉ, quốc gia phải duy trì được bốn đức tính này; bốn đức tính này mà không được duy trì thì đất nước rơi vào họa diệt vong). Trung Cộng đắm chìm trong vũ lực và tiền bạc, không hiểu được tác dụng lâu dài của đạo đức đối với việc trị quốc, trước những biểu hiện cực kỳ độc ác và phức tạp của nhân tính con người trong xã hội Trung Cộng ngày nay, nó căn bản không thể giải quyết được. Nếu như nói trong lịch sử, giặc ngoại xâm từng khiến cho dân tộc Trung Hoa phải đối diện với nguy cơ mất nước, diệt vong, thì ngày nay, những con người với nhân tâm không thể khống chế được do Trung Cộng tạo nên lại khiến cho dân tộc Trung Hoa phải đối diện với nguy cơ đáng sợ hơn, trước nay chưa từng có.

Hủy hoại văn hóa

Đảng Cộng sản hủy hoại ba tôn giáo, dùng chữ giản thể để thay đổi văn hóa Trung Hoa, điên cuồng phá hoại các văn vật, bức hại các phần tử trí thức; sau Cách mạng Văn hóa, nền tảng Văn hóa truyền thống đã bị phá hủy hết, rồi nó lại tự tô vẽ một phần văn hóa bề mặt để kiếm tiền. Về vấn đề này, phần 1, phần 2 và phần 6 của Cửu Bình đã liệt kê đầy đủ, ở đây không nhắc lại nữa.

Trung Quốc trong lịch sử đã nhiều lần bị giặc ngoại xâm xâm lược. Như cuộc chiến tranh xâm lược do quân Nhật phát động đã gây ra cái chết cho hơn 20 triệu quân và dân Trung Quốc, gây tổn thất kinh tế trực tiếp 60 tỷ USD. Nhưng cái đảng mà Trung Cộng gọi là đảng “phục vụ nhân dân”, cái đảng tự cho nó là đại biểu cho “lợi ích căn bản của quảng đại quần chúng”, đã gây ra tổn hại sâu sắc cho dân tộc Trung Hoa, mức tổn hại vượt xa rất nhiều lần chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản, cũng vượt qua bất cứ cuộc xâm lược ngoại bang nào trong lịch sử.

Rất nhiều người Trung Quốc một mặt tự tôn mình là dân tộc Trung Hoa chính thống, cố gắng thể hiện khí phách của một nước lớn trước mặt người ngoại quốc; nhưng mặt khác lại tận lực duy hộ cho hình tượng của Đảng Cộng sản, không cho người khác phê bình đảng dù chỉ là một chút. Có lẽ họ không ý thức được rằng, thủ phạm đã phá hoại văn hóa Trung Hoa chính là Đảng Cộng sản – kẻ luôn muốn “đấu với Trời, đấu với Đất”, tham quan ô lại, bán nước hại dân, tội ác chồng chất. Nếu họ thực sự yêu nước thì điều nên làm đầu tiên đó là từ chối đứng cùng hàng ngũ với Trung Cộng. Không có Đảng Cộng sản thì mới có Trung Quốc mới.

  1. “Được cha mẹ yêu không bằng được Đảng yêu

Đối với rất nhiều người Trung Quốc hiện nay, câu khẩu hiệu “Được cha mẹ yêu không bằng được đảng yêu” đã trở nên rất nực cười. Đến nay, Trung Cộng rất ít trực tiếp tuyên truyền câu khẩu hiệu này, không chỉ là vì người dân đã trở nên phản cảm với kiểu tuyên truyền trơ trẽn này, mà còn vì qua thời gian dài tuyên truyền lúc rõ ràng lúc mập mờ, người ta đã tiếp thu nội hàm ở đằng sau câu khẩu hiệu này. Ví dụ như, khi trong lòng người ta đã vô thức mà coi Trung Cộng đồng nghĩa với tổ quốc, thì Trung Cộng chỉ cần tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, hát “Bài ca Trường Giang”, đã có thể khiến người ta vô thức mà nghĩ tới “đảng”. “Được cha mẹ yêu không bằng được đảng yêu” – câu khẩu hiệu này vẫn ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy của mỗi người dân Trung Quốc ngày nay.

Chúng ta hãy phân tích kỹ một chút câu khẩu hiệu “Được cha mẹ yêu không bằng được đảng yêu” này nói lên điều gì, làm thế nào đạt được mục đích tuyên truyền của nó.

1) Các hình thức biểu hiện muôn hình muôn vẻ trong tuyên truyền

Trong hầu hết các bộ phim “cách mạng” đều có cảnh như sau: nhân vật anh hùng bị thương nặng, nhưng trước khi trút hơi thở cuối cùng còn phải lục tìm mãi trong ngực áo, căn dặn người bên cạnh mình hãy thay mình đóng đợt đảng phí cuối cùng, hoặc nộp đơn xin gia nhập đảng. Những tình tiết kiểu như vậy cứ lặp đi lặp lại nhiều lần, mục đích để nhấn mạnh một chủ đề “Được cha mẹ yêu không bằng được đảng yêu”. Người bình thường trước khi lâm chung thường nghĩ đến cha mẹ, vợ con của mình, nhưng dưới sự tuyên truyền của Văn hóa đảng, người ta trước khi chết không nghĩ đến tình thân quyến mà lại nghĩ đến đảng, đảng còn thân thiết hơn cả cha mẹ, phải đưa cho đảng thứ quý giá cuối cùng của mình rồi mới yên tâm nhắm mắt.

Trong số những tác phẩm có liên quan đến quân đội, thường có các chi tiết người chỉ huy và ủy viên chính trị quan tâm đến binh lính, ân cần hỏi han, quan tâm đến những khó khăn trong gia đình ra sao, cuối cùng để cho một binh lính thốt lên rằng quân đội là một “đại gia đình”, một “lò tôi luyện”, bản thân đã trở nên “trưởng thành”, “tiến bộ” trong “đại gia đình”, mà cha mẹ của cái “đại gia đình” ấy tất nhiên là “tổ chức của đảng”. Người làm việc tốt thường là “đảng viên ưu tú”, bí thư Đảng ủy luôn quan tâm đến đời sống của mọi người, việc kết hôn, phân nhà, sinh con, giải quyết mâu thuẫn .. cuối cùng đều phải nhờ bí thư chi bộ đến chủ trì, phân xử. Một cách vô thức tuyên truyền rằng có việc gì đều phải nhờ tổ chức, tin tưởng vào tổ chức, tin tưởng vào phương thức tư duy của đảng, từ đó dẫn dắt ý thức con người đến chủ đề “Được cha mẹ yêu không bằng được đảng yêu”.

Còn rất nhiều ca khúc du dương, trầm bổng, xuyên suốt trong những lời ca ấy đều là chủ đề “Được cha mẹ yêu không bằng được đảng yêu” lúc rõ nét lúc mập mờ. “Những đám mây trắng trôi lững lờ trên bầu trời, dưới trời mây là những chú ngựa đang chạy, vung roi da khắp bốn phương, hàng trăm con chim bay lượn …” (bài hát “Mặt trời mọc và lặn trên thảo nguyên“). Khi người ta hát những lời hát nồng nàn mang giai điệu dân gian này, trong đầu họ hiện ra khung cảnh tuyệt đẹp của thảo nguyên lộng gió với những đàn trâu bò gặm cỏ. Nhưng đây chỉ là phần dạo nhạc, câu cuối cùng của bài hát lại quay trở về chủ đề chính “Mao chủ tịch và Đảng Cộng sản, dạy dỗ chúng tôi trưởng thành, mặt trời không bao giờ lặn trên thảo nguyên”. Bài hát “Chúng tôi giơ hai mái chèo” có giai điệu rất du dương khiến rất nhiều người trưởng thành không thể nào quên được. “Con thuyền nhỏ rẽ sóng ra khơi, một ngọn tháp trắng tuyệt đẹp đổ bóng lên mặt biển, bốn bề vây quanh bởi cây xanh, tường đỏ”, khi người ta chìm đắm trong những ca từ như thơ như họa ấy thì bắt gặp một câu ca như thể vô tình làm nổi bật chủ đề: “Tôi hỏi anh, người chồng thân yêu của tôi, ai đã mang đến cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc này”. Đứa trẻ nào chẳng biết rằng cuộc sống này là do cha mẹ ban cho chúng ta, nhưng ý đồ sâu xa hơn của câu hỏi này hiển nhiên là chủ đề thâm sâu hơn “Đảng còn thân thiết hơn cả cha mẹ, Đảng đã mang lại cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc”.

Trong tuyên truyền, Trung Cộng rất thích xây dựng những tấm gương điển hình, tất nhiên những tấm gương điển hình làm việc tốt này đều là đảng viên, đoàn viên. Bất cứ xã hội nào cũng đều có người tốt, lương thiện, quan tâm đến người khác. Nhưng Trung Cộng lại rất giỏi lôi kéo những người tốt vào “tổ chức của đảng”, nó cũng giỏi lợi dụng công cụ tuyên truyền để “moi móc ra những người tốt, việc tốt” trong các đảng viên. Con người ai cũng có mặt lương thiện, nhưng mặt lương thiện của các đảng viên lại được tuyên truyền phóng đại thành họ luôn quan tâm đến nỗi thống khổ của nhân dân, rằng vì họ đã gia nhập đảng nên đã phát huy được đảng tính; nhờ đảng bồi dưỡng, giáo dục mà họ có thể làm được những việc tốt này; “cảnh giới cao nhất của một người đảng viên là yêu dân” v.v.. Nó còn bắt những người bị đảng “quan tâm” phải biểu thị rằng: “Thật vinh dự khi sinh ra ở nước Trung Quốc mới, trưởng thành dưới lá cờ đỏ, luôn cảm nhận được sự ấm áp của đại gia đình chủ nghĩa xã hội”. Trong tuyên truyền, việc cổ xúy cho những hành động này đều ám chỉ rằng chỉ có đảng viên mới thực sự quan tâm đến bạn, quan tâm hơn cả cha mẹ bạn, vẫn là “Được cha mẹ yêu không bằng được đảng yêu”.

Trung Cộng đã cướp bóc, lũng đoạn tài nguyên xã hội trên mọi mặt, người ta học hành, làm việc, lập gia đình, ăn ở đi lại, sinh lão bệnh tử đều ở trong cái xã hội bị Trung Cộng khống chế nghiêm ngặt. Vậy nên Trung Cộng liền sử dụng tuyên truyền để làm lẫn lộn các khái niệm của con người, biến những điều kiện sống mà con người hiển nhiên có trong xã hội bình thường trở thành phúc lợi được “đảng” hoặc “chính phủ” ban cho, khiến người ta quên mất bản thân mình do cha mẹ sinh ra, tiền là thành quả sức lao động của chính mình, tạo nên tư duy văn hóa đảng đúng sai lẫn lộn. Ví dụ: “không có đảng của chúng ta thì làm sao có được cuộc sống tươi đẹp hiện tại”, “chính sách phúc lợi cho nhân dân của đảng thật tốt”, “ngọn gió xuân cải cách thổi khắp nơi”. Người dân được hưởng một chút thuận lợi hay mức sống được nâng cao, đều do đảng ban cho, từ đó có thể thấy rõ thông điệp “Được cha mẹ yêu không bằng được đảng yêu”.

Trong tuyên truyền, Trung Cộng không chỉ ca ngợi công lao của mình, nó cũng nêu ra các vấn đề mặt trái xã hội như phân hóa giàu nghèo, tham nhũng, các hiện tượng tệ nạn xã hội, thiên tai…, tuy nhiên lại dưới hình thức như các chương trình truyền hình “hỗ trợ người nghèo”, “lãnh đạo về quê”, “tặng áo ấm”, trên mạng internet ngày nào cũng rêu rao các khẩu hiệu quyết tâm “chống tham nhũng”, lãnh đạo nhân dân “đấu tranh chống lũ lụt giành thắng lợi”, chống dịch SARS thành công v.v. Khổ nạn của người dân đều bị biến thành vòng hào quang trên đầu Trung Cộng. “Chương trình phỏng vấn tiêu điểm” hàng ngày đều đề cập đến những mặt xấu xa và bất công trong xã hội. Khi những mặt xấu này được phơi bày, trong khi người ta đang cảm thấy bất mãn với xã hội hiện tại, thì người đưa ra giải pháp chắc chắn vẫn là bộ ngành các cấp liên quan của đảng và chính phủ. Trong tuyên truyền, những việc tốt khoe ra, xấu che lại thì Trung Cộng lại càng thuần thục hơn, dù sự việc xấu tệ đến mức nào, cuối cùng vẫn là “chỉ cần vận dụng một cách thiết thực chính sách nào đó của đảng thì vấn đề nhất định sẽ được giải quyết”. Chủ đề của những tuyên truyền này chính là đảng ở bất cứ nơi đâu, không gì không thể làm được, đảng sẵn sàng quan tâm giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống của người dân Trung Quốc, đến cha mẹ cũng không có khả năng làm như vậy, đúng là “Được cha mẹ yêu không bằng được đảng yêu”.


Ảnh: Epoch Times

2) Tuyên truyền khái niệm đảng là mẹ

“Tôi hát một bài sơn ca cho đảng nghe, tôi yêu đảng hơn cả mẹ mình, mẹ chỉ sinh ra thân thể tôi, còn ánh hào quang của đảng soi sáng trái tim tôi”.

“Ơi mẹ thân yêu, mẹ nuôi tôi lớn lên bằng dòng sữa ngọt ngào, ơi đảng thân yêu, người giống như mẹ nuôi nấng tôi trưởng thành, người dạy tôi yêu tổ quốc, khuyến khích tôi học tập”.


Ảnh: Epoch Times

Hai bài hát này đã trở nên quá quen thuộc với người Trung Quốc ngày nay. Tại sao Trung Cộng lại hứng thú với thủ đoạn tuyên truyền nhân cách hóa như vậy?

Bởi vì “mẹ” là một từ thiêng liêng và thân thương với mỗi người. Mẹ sinh ra và nuôi nấng chúng ta, có ân nghĩa với chúng ta; mẹ lại rất yêu thương chúng ta, có tình cảm sâu nặng với chúng ta. Khi còn trẻ chúng ta dựa dẫm vào mẹ. Khi trưởng thành chúng ta phải phụng dưỡng mẹ, đây là đạo lý của đất trời. Xã hội truyền thống của Trung Quốc rất coi trọng chữ hiếu, cho dù là bậc đế vương, danh tướng chí cao vô thượng cũng phải vô cùng kính trọng đối với mẹ.

Đảng Cộng sản đã lợi dụng kiểu tâm lý này, nó cải trang mình thành mẹ để lừa gạt người Trung Quốc phải dựa dẫm vào nó, nghe lời và cung phụng nó. Mấy chục năm tuyên truyền như vậy, rất nhiều người đã thực sự coi Đảng Cộng sản là người nhà. Sau khi đảng làm chuyện xấu, người ta lạc quan tin tưởng rằng “mẹ đảng” vốn dĩ là tốt, chỉ là phương thức thực hiện không đúng, hoặc bị người khác lợi dụng, tóm lại là “đảng” không sai, “đảng” mà sai thì cũng có nguyên nhân hợp tình hợp lý.

Còn có một quan niệm liên quan, đó là “việc xấu trong nhà thì không thể khoe ra ngoài”. Nếu ai mà tiết lộ việc Đảng Cộng sản làm điều đồi bại với dân chúng, nhất là tiết lộ ra cộng đồng thế giới, thì chính là bôi nhọ hình tượng của “đảng và chính phủ”, những “nhân sỹ yêu nước” liền cảm thấy như thể bản thân mình bị phơi bày vậy, họ sẽ đứng lên dùng ngòi bút làm vũ khí.

Khoan hãy nói rằng đảng không phải là mẹ của chúng ta. Cứ giả dụ như nó là mẹ đi, nếu một người mẹ mà cầm con dao thái rau lên để đe dọa đứa trẻ, thì hàng xóm không những nên quan tâm mà thậm chí còn nên gọi cảnh sát đến. Cứ coi như nói một cách nhẹ nhàng nhất, Trung Cộng chỉ là làm việc xấu còn tâm thì tốt, thì người dân cũng nên phơi bày ra, dùng áp lực mạnh mẽ của dư luận quốc tế để khiến cho nó không dám tiếp tục hành ác nữa.

Mặt khác, khi ngày càng nhiều sự thật lịch sử và nội tình của Trung Cộng được tiết lộ, chúng ta đã biết rằng việc Trung Cộng giết người, tham nhũng, lừa gạt và đàn áp tàn bạo đối với người dân Trung Quốc chính là nguyên tắc lý luận mà nó công khai ca ngợi và là phương châm chính sách quen thuộc của nó. Từ “Chỉnh phong”, “Phản hữu”, “Đại Cách mạng Văn hóa”, cho đến bức hại Pháp Luân Công đều quyết không phải là “sự sai lầm” của Đảng Cộng sản, mà đó là sách lược nghiêm túc của nó, là một phần trong việc thực thi chính sách thống trị của nó. Do đó, Trung Cộng hoàn toàn không phải là người thân thiết hơn cả cha mẹ, mà là một tên cướp, tên lưu manh khoác áo “người tốt”, “người thân”.

3) Nguyên nhân tâm lý của việc nhận giặc làm cha

Thời kỳ đầu thập niên 80, Hứa Linh Quân – nhân vật chính trong bộ phim nổi tiếng một thời “Người chăn ngựa” – bị dán nhãn cánh hữu, bị đày đi lưu vong ở Nội Mông Cổ 20 năm. Cha mẹ cậu đã di cư sang Mỹ từ trước trở về nước thăm cậu, và mời cậu sang Mỹ sống, tuy nhiên cậu đã từ chối một cách mềm mỏng nhưng kiên quyết. Lý do là: những khổ nạn của bản thân cậu và của hàng trăm triệu người dân Trung Quốc chỉ là “một sự sai lầm của lịch sử”, là “người mẹ đã trách nhầm con”. Con cái không thể nào oán trách mẹ được, bởi vì mẹ luôn yêu con, luôn mong muốn điều tốt cho con, cho dù có lúc phương pháp không phù hợp lắm.

Lối suy nghĩ của Hứa Linh Quân rất phổ biến. “Mẹ đánh con”, “mẹ trách nhầm con” là lối ví von thường được sử dụng trong các tác phẩm văn nghệ vào giai đoạn cuối những năm 70 và đầu những năm 80, cũng là tâm thái mà rất nhiều phần tử trí thức và cán bộ đảng viên đã trải qua trong các cuộc vận động chính trị hết lần này đến lần khác của Trung Cộng. Chúng ta không cần hoài nghi về tính chân thực của loại tình cảm này, ở đây chúng tôi muốn phân tích một chút, biết bao nạn nhân đã nhiều lần bị Trung Cộng đùa giỡn, đàn áp tàn bạo, họ đã bỏ phí những ngày tháng thanh xuân tươi đẹp nhất của mình trong lao tù, trại lao động, vùng nông thôn hay nơi biên cương, thậm chí bị đảng ép gia đình ly tán, nhà tan cửa nát, tại sao họ lại dễ dàng chấp nhận sự “sám hối” giả tạo của Trung Cộng đến như vậy?

Nội hàm chân thực của tuyên truyền “Được cha mẹ yêu không bằng được đảng yêu” là muốn người ta cuối cùng phải dựa dẫm, nghe theo Trung Cộng, kẻ còn thân thiết hơn cha mẹ. Người Trung Quốc vốn rất coi trọng chữ hiếu, luôn coi việc nhận nhầm cha mẹ là nỗi nhục nhã lớn, “nhận giặc làm cha” là một trong những câu sỉ nhục nặng nề nhất. Nhưng tại sao dưới sự thống trị của Trung Cộng, rất nhiều người dân Trung Quốc lại nhận nhầm Trung Cộng (mới có 80 tuổi) thành người mẹ của dân tộc Trung Hoa 5000 tuổi? Nguyên nhân đằng sau tâm lý này là gì? Có ba nguyên nhân chính, một là có liên quan đến việc tuyên truyền lừa gạt của Trung Cộng, hai nguyên nhân khác có liên quan đến tâm lý của người bị lừa gạt.

(1) Hai Đảng Cộng sản thật và giả

Đảng Cộng sản rất giỏi phất cao ngọn cờ “đạo đức”, nhưng nội hàm của những câu khẩu hiệu đạo đức này hoàn toàn để phục vụ cho mục đích cuối cùng của Trung Cộng. Ví dụ, “toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân” là phải phục vụ cho những người mà đảng xác định là nhân dân, còn đối với những người mà đảng xác định là kẻ thù thì phải vô tình, tàn nhẫn như gió quét lá rụng; “chí công vô tư” nghĩa là phải một lòng vì đảng, trọng tâm của việc “học theo tấm gương Lôi Phong” là phải học tập lập trường giai cấp rõ ràng của Lôi Phong, phải trung thành với đảng như những con ốc vít của đảng; “Ngũ giảng Tứ mỹ Tam nhiệt ái [8] không tách rời “yêu Đảng Cộng sản, yêu Chủ nghĩa Xã hội”, “vẻ đẹp tâm hồn” nhất định là đẹp ở tình yêu Chủ nghĩa Xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; “văn minh tinh thần” là phải dùng tư tưởng chủ nghĩa Marx-Lenin để chiếm lĩnh tư tưởng văn hóa và dư luận; “lấy đức trị quốc” chính là phải lấy chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình làm cảnh giới cao nhất của “đức”; “xã hội hài hòa” nhấn mạnh một “xã hội hài hòa theo Chủ nghĩa Xã hội” đồng lòng với đảng, là sự hài hòa với những người mà đảng thích; “bát vinh bát nhục” là dựa vào những điều đảng yêu và ghét để phân định đâu là vinh, đâu là nhục. Do cuộc vận động đạo đức của Trung Cộng đều lấy việc phục vụ cho Trung Cộng làm mục đích cao nhất, cho nên, cuộc vận động giáo dục đạo đức căn bản không có tác dụng, chỉ như một trận gió thổi qua, ngược lại khiến cho đạo đức xã hội Trung Quốc ngày càng tuột dốc, nguy cơ về đạo đức giờ đây đã trở thành mối nguy cơ xã hội mà Trung Quốc công nhận. Tuy nhiên, khách quan mà nói thì cuộc “vận động đạo đức” này lại giúp Trung Cộng khoác lên mình bộ cánh “đạo đức giả” để mị dân, Trung Cộng cũng đã quen với việc quy kết tất cả những sai lầm mà nó đã phạm trong lịch sử cho một vài cá nhân chịu tội thay, các kênh truyền thông miệng lưỡi của Trung Cộng lại còn mô tả nó như anh hùng “rửa nỗi nhục mất nước, chấn hưng Trung Hoa”. Suốt một thời gian dài như vậy, cho dù người dân trong lịch sử đã phải chịu bao đau khổ do Trung Cộng gây ra, trong mắt của rất nhiều người vẫn tồn tại một hình ảnh giả tạo của Trung Cộng, họ tưởng rằng “giả tướng” này mới là “bản chất thật” của đảng, vậy nên cho dù bản thân họ phải chịu những tổn hại và oan khuất to lớn, họ vẫn có thiện ý với Trung Cộng, cho rằng xuất phát điểm của “đảng” là tốt.

(2) Từ chối thừa nhận bản thân mình đã bị lừa

Đa phần những người bị lừa thường không muốn thừa nhận rằng mình đã bị lừa, bởi vì thừa nhận mình bị lừa dối cũng đồng nghĩa với thừa nhận bản thân mình đã từng ấu trĩ, nhẹ dạ, thiếu kinh nghiệm, không hiểu thời thế. Rất nhiều thanh niên từng ôm giữ lý tưởng cứu nước, cứu dân, nghe và tin theo sự tuyên truyền của Trung Cộng, tưởng rằng nó thực sự là “một lòng vì dân tộc”, do đó họ đã gia nhập Trung Cộng hoặc cùng đồng hành với nó, ôm giữ thái độ đồng tình và tán thưởng nó. Trong “sự nghiệp” của Trung Cộng, họ đã đổ biết bao tâm huyết, dành biết bao tình cảm. Cuối cùng vào một ngày, họ phát hiện rằng lý tưởng trong sáng của mình đã bị Trung Cộng biến thành trò đùa vô tình. Các cuộc thanh trừng nội bộ và sự sa đọa của Trung Cộng đã vượt xa bất cứ cái gọi là chính quyền của “giai cấp bóc lột” nào trong lịch sử. Những tai họa do chính quyền Trung Cộng gây ra cho nhân dân và đất nước cũng vượt xa bất cứ cuộc xâm lược ngoại xâm nào trong lịch sử. Vậy nên lúc này người dân nên tỉnh ngộ ra, nhận rõ những sai lầm trong nhận thức của bản thân và những điểm yếu trong tính cách, nhận rõ tại sao họ lại bị Trung Cộng lợi dụng biến trở thành công cụ để gây tai họa cho Trung Hoa. Từ đó tiến đến ra tay hành động để vạch trần nó, ngăn chặn nó, hoặc chí ít thì cũng rời xa nó, đừng nên tiếp tục nối giáo cho giặc nữa.

Tuy nhiên, những nhược điểm như bao che khuyết điểm, giữ thể diện, chấp trước mạnh mẽ vào cái tôi đã khiến họ không đủ tỉnh táo để đưa ra sự lựa chọn đó. Sâu trong ý thức của họ, việc phủ nhận Trung Cộng cũng tương đương với phủ nhận lý tưởng của bản thân, mà bản thân họ ban đầu đều ôm giữ nguyện vọng “tham gia cách mạng” tốt đẹp và đầy nhiệt huyết. Để không phủ nhận lý tưởng mà mình theo đuổi, họ đã vô tình hay hữu ý vờ như không biết hoặc coi nhẹ những tội ác của Đảng Cộng sản. Họ không ngờ rằng động cơ và kết quả của hành động thường trái ngược nhau; điều quan trọng là, động cơ của cá nhân mỗi đảng viên không phải là động cơ của cả tổ chức Trung Cộng, hành vi của cá nhân đảng viên cũng không phải là hành vi của cả tổ chức Trung Cộng, mà động cơ và hành vi của tổ chức Trung Cộng mới là cơ sở để nhận định bản chất của nó.

Chúng tôi không có ý chỉ trích một ai. Trung Cộng là một tổ chức tà ác chưa từng có từ xưa đến nay, miệng lưỡi nó có thể nói những điều vô cùng tốt đẹp nhưng sau lưng lại không từ một thủ đoạn xấu nào, sự tà ác và vô nhân tính của nó đã vượt quá cả thực tế và tưởng tượng của nhân loại. Khi Đảng Cộng sản phát triển ở Trung Quốc cũng là thời gian mà đất nước Trung Quốc đứng trước nguy cơ bức bách thù trong giặc ngoài, trong tình huống đó, muốn suy nghĩ một cách trầm tĩnh, phán đoán một cách lý trí quả thực không dễ. Giờ đây đã qua mấy chục năm, những người đã bị lừa gạt suốt một nửa cuộc đời, thậm chí lâu hơn nữa, lần đầu tiên họ có cơ hội nhìn rõ được bản chất của Trung Cộng, phải thích ứng với nhược điểm tâm lý lớn, phải suy nghĩ lại một cách kỹ lưỡng về cuộc sống và sự nghiệp của bản thân, do vậy điều cần nhất đối với họ là một dũng khí và đạo đức lớn để đối diện với bản thân.

 (3) Hội chứng Stockholm

Ngày 23 tháng 08 năm 1973, có hai tên cướp có vũ trang đã đột nhập vào một ngân hàng ở Stockholm, Thụy Điển, bọn chúng vừa điên cuồng nổ súng bừa bãi vừa nói: “Bữa tiệc đã bắt đầu rồi”. Hai tên cướp đã bắt giữ bốn nhân viên gồm ba nam giới và một phụ nữ. Cảnh sát lập tức bao vây hiện trường, đến ngày 28, họ đã đột kích thành công, cứu được những con tin và bắt được hai tên cướp. Trong suốt sáu ngày cảnh sát giằng co với mấy tên cướp, các con tin không những từ chối sự ứng cứu từ bên ngoài, mà còn cho rằng những cảnh sát đến cứu họ muốn làm hại họ, còn những kẻ bắt giữ họ mới đang bảo vệ họ. Điều khiến người ta kinh ngạc hơn là, sau khi mấy con tin này được cứu thoát, họ không những không tố cáo những tên cướp này mà còn ca ngợi chúng trước truyền thông và tòa án, họ cảm ơn chúng vì đã không giết mà đối xử tốt với họ. Trong số đó, một con tin nữ thậm chí còn đính hôn với một tên cướp, còn một con tin khác đã lập một quỹ quyên góp tiền trên toàn thế giới để ủng hộ cho tên cướp.

Khi sinh mệnh bị uy hiếp, dục vọng sống mạnh mẽ đã khiến những con tin này ủng hộ những kẻ bắt giữ họ, mà sự ủng hộ này còn tiếp tục kéo dài sau khi sự uy hiếp kết thúc. Hội chứng tinh thần này sau đó được gọi là “Hội chứng Stockholm”.

Để tạo nên hội chứng Stockholm cần có bốn điều kiện. Điều kiện thứ nhất là phải làm cho người ta thực sự cảm thấy sinh mệnh bị uy hiếp, khiến họ tin rằng những kẻ tra tấn này bất cứ lúc nào cũng sẽ làm hại họ không chút do dự; Điều kiện thứ hai là kẻ tra tấn nhất định phải ban cho người bị hại một chút ân huệ nhỏ, khiến người bị hại tin rằng kẻ tra tấn chính là cứu tinh của họ; Điều kiện thứ ba là khống chế mọi tin tức đến với người bị hại, khiến họ bị cách ly hoàn toàn với bên ngoài, không biết được bất cứ thông tin nào mà kẻ tra tấn không muốn họ biết; Điều kiện thứ tư là làm cho người bị hại cảm thấy không còn con đường nào thoát thân.

Không khó mà nhận ra rằng, Trung Cộng hội tụ tất cả các điều kiện để tạo nên hội chứng Stockholm. Sự tẩy não thành công một cách bất thường của Trung Cộng đối với người dân Trung Quốc, cơ chế của nó tương đồng một cách kinh ngạc với cơ chế sản sinh ra hội chứng Stockholm.

Trung Cộng đã tạo ra hội chứng Stockholm một cách khá quy mô, bắt đầu từ cuộc vận động “chỉnh phong, thẩm can, diệt phản” ở Diên An vào thập niên 40. Các bản khai nhận lỗi sửa sai của các đảng viên thông thường đều phải sửa ba, bốn lần, có bản được sửa đổi hơn mười ba lần, họ chỉ sợ không đủ sâu sắc thì khó mà qua nổi. Trong những ngày tháng đen tối của cuộc vận động, các cán bộ đều vô cùng căng thẳng, ăn không ngon, ngủ không yên. Các cán bộ đảng viên bị bạo lực uy hiếp, bị nhồi nhét vào đầu những lý luận của đảng, trải qua thời gian dài trong cảnh địa ngục tinh thần, cuối cùng cả thể xác lẫn tinh thần đều run rẩy quy phục trước uy quyền của “đảng”. Nhà văn Lưu Bạch Vũ nhớ lại, ông đã trải qua những đợt công kích trong cuộc vận động thẩm tra cán bộ, “mới từ không trung cao vạn trượng đáp xuống mặt đất bằng phẳng”, cái gọi là “mặt đất bằng phẳng” chính là mắc phải hội chứng Stockholm, họ đã quên mất trạng thái lúc khỏe mạnh của mình.


Ảnh: Epoch Times

Trong các cuộc vận động chính trị, Trung Cộng thường dùng thủ đoạn vừa đấm vừa xoa, mỗi đảng viên đều hy vọng được “đảng” tín nhiệm, được “đảng” coi là người của nó chứ không phải là kẻ thù, được làm “công cụ đấu tranh của đảng” chứ không phải đối tượng bị đảng đả kích.

Một thủ đoạn quen thuộc khác của Trung Cộng là “tiến mười bước, lùi một bước”, sau mỗi cuộc vận động nó lại hô hào “quảng đại hóa”, bắt đầu “phân biệt”, “cải chính”, “bình phản”. Những người không may không vượt qua được trong các cuộc vận động thường rất hy vọng vào bình phản, khi đột nhiên được ban tặng cho một chút ân huệ nhỏ, họ thường cảm thấy vừa mừng vừa lo, cảm kích đối với Trung Cộng đến rơi nước mắt.

Nhà văn nữ Đinh Linh với quyển tiểu thuyết dài tập “Mặt trời chiếu trên sông Tang Can” đã giành giải thưởng “Văn học Stalin” vào năm 1951, từng làm mưa làm gió một thời trên văn đàn sau năm 1949. Nhà văn này gia nhập Trung Cộng vào năm 1932, bị xếp vào “thành phần phản động Quốc dân đảng” và bị giam lỏng ở Nam Kinh suốt ba năm, bị “đảng” mà cô ấy trung thành tuyệt đối lưu đày và giam giữ hai mươi năm, trong thời gian đó còn bị tra tấn đến tàn tật. Tuy “đảng không yêu cô ấy nhưng cô ấy vẫn yêu đảng”, sau cuộc “bình phản”, trong lần tái bản cuốn sách “Mặt trời chiếu trên sông Tang Can”, cô nói rằng cô vẫn “như một người chiến sĩ gọi tên Mao chủ tịch xông ra chiến trường”. Năm 1984, hai năm trước khi từ trần, Đinh Linh viết thư cho Trung ương Đảng: “Trong 52 năm qua, tôi luôn cảm thấy ấm áp, vinh dự, hạnh phúc, được đảng dẫn dắt, khiến tôi càng thêm gắn bó với đảng, càng thêm thấu hiểu nhân dân, càng thêm tin tưởng vào sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản”. Lúc đó Đinh Linh đã gần 80 tuổi, bà đã trải qua một phần tư cuộc đời trong cũi sắt của Trung Cộng, tận mắt chứng kiến sự bất công, tàn khốc, vô tình của Trung Cộng, vậy mà vẫn “như một người chiến sĩ gọi tên Mao chủ tịch xông ra chiến trường”, quả là khiến người ta cảm thấy không rét mà run.

Những người đã từng trải qua các cuộc vận động chính trị của Trung Cộng, đã tận mắt chứng kiến bộ máy chuyên chế Trung Cộng dã man “càn quét”, “phá hủy”, “đập nát”, “phá tan”, đã bị Trung Cộng dọa cho không còn hồn vía. Những người Trung Quốc đáng thương đến nỗi ngay cả trong nhà mình cũng không dám nói to, ra nước ngoài sống cũng không dám mở xem một chút các sách báo bị Trung Cộng coi là “phản động”. Khi họ nói hoặc hát rằng “Được cha mẹ yêu không bằng được đảng yêu”, “Ơi đảng, người mẹ thân yêu”, “Tôi coi đảng như mẹ”, chúng ta nghe như tiếng kêu rên rỉ của những tâm hồn bị dày xéo khi mắc phải hội chứng Stockholm.

Ảnh: Epoch Times

Ba tình huống đã phân tích ở trên: bị Trung Cộng lừa gạt, chấp trước vào cái tôi cá nhân, hội chứng Stockholm, đều có thể khiến người ta “tự giác” hô những câu khẩu hiệu mà Trung Cộng muốn họ hô. Hơn thế nữa, ngày nay ngày càng nhiều người qua thời gian dài được Trung Cộng huấn luyện, họ có thể dễ dàng mang hai bộ mặt, thay đổi hai giọng điệu. Họ dùng một bộ mặt, một giọng điệu để đối phó với các quan chức Trung Cộng, trong các báo cáo hội nghị và báo cáo tư tưởng, một bộ mặt kia để nói chuyện với bạn bè và người thân trong các bữa cơm gia đình thân mật. Vài năm trước, người dân Đại lục có một câu cửa miệng điển hình thể hiện tâm lý này: “Ăn nhiều cơm, uống ít rượu, nghe lời vợ, đi theo đảng”. Tại sao phải nghe lời vợ? Bởi vì trong tâm người ta đều biết rằng, chỉ có người thân (bạn bè) mới quan tâm chân thành tới chúng ta; mặc dù “đảng” tự xưng là “toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”, nhưng nó chưa từng quan tâm đến người dân sống chết ra sao, nhưng không biểu thị thái độ ủng hộ đảng thì không được, cho nên đành phải hô vài câu khẩu hiệu cho lấy lệ, cũng là “đồng ý cho xong chuyện”.


Bản gốc:

http://www.epochtimes.com/gb/6/10/18/n1490585.htm

Chú thích:

[1] Ngày 07 tháng 11 năm 1931, kỷ niệm Cách mạng tháng 10, Chính phủ lâm thời nước Cộng hoà Xô-viết Trung Hoa được thành lập tại Thụy Kim, Giang Tây, Mao Trạch Đông được bầu làm Chủ tịch.

Ngày đăng: 24-11-2014