Chương 12: Giáo dục – Ma quỷ đang hủy đi thế hệ sau và tương lai của chúng ta (Phần II) (audio)
Mục lục
2. Tà linh cộng sản thâm nhập vào giáo dục trung học và tiểu học
2.1 Lợi dụng giáo dục khiến học sinh trở nên dốt nát
2.2 Giáo dục chủ nghĩa tiến bộ là công cụ đắc lực của ma quỷ
2.2.1 Từ Rousseau đến Dewey
2.2.2 Lấy cớ “bản tính con người vốn lương thiện” để mặc cho học sinh phát triển tự nhiên
2.2.3 Dùng danh nghĩa “học sinh là trung tâm” để phủ nhận quyền uy và truyền thống của giáo viên
2.3 Lợi dụng giáo dục khiến học sinh trở nên hư hỏng
2.3.1 Nhồi nhét thuyết tiến hóa và thuyết vô thần
2.3.2 Truyền bá hình thái ý thức chủ nghĩa cộng sản
2.4 Giáo dục quy mô lớn dẫn đến thao túng khống chế tâm lý
2.4.1 Tâm lý học và giáo dục học
2.4.2 Dùng chủ nghĩa đạo đức tương đối để làm lẫn lộn giá trị quan của học sinh
2.4.3 Khiến học sinh trở thành thờ ơ, bất nhân – Giáo dục tử vong và giáo dục phòng chống ma túy
2.4.4 Giáo dục giới tính tục tĩu
2.4.5 Dùng danh nghĩa “tự tôn” để phóng đại chủ nghĩa coi mình là trung tâm
2.5 Các thủ đoạn phức tạp và quanh co của ma quỷ để thâm nhập giáo dục
2.5.1 Quyền khống chế giáo dục trung học và tiểu học ở Mỹ không ngừng thay đổi
2.5.2 Công đoàn giáo viên khích lệ tầm thường và cản trở cải cách
2.5.3 Xóa bỏ ảnh hưởng của gia đình trong quá trình giáo dục
2.5.4 Dùng thuật ngữ phức tạp để gây nhầm lẫn cho phụ huynh và công chúng
2.5.5 Sắp xếp lại các môn học trên quy mô lớn và liên tục đổi mới sách giáo khoa
2.5.6 Không ngừng tiến hành cải cách giáo dục là phép biện chứng đấu tranh lùi một bước để tiến hai bước
3. Ma quỷ bằng nhiều con đường khác nhau đi đến một mục đích là phá hoại giáo dục ở phương Đông và phương Tây
Lời kết: Trở về giáo dục truyền thống
========
2. Tà linh cộng sản thâm nhập vào giáo dục trung học và tiểu học
Trong lĩnh vực giáo dục, mặc dù nơi mà tà linh cộng sản can thiệp nặng nhất là đại học, nhưng nó cũng không hề buông lỏng việc xâm nhập vào giáo dục trung học và tiểu học. Nó đã dùng mọi thủ đoạn giảo hoạt để khiến học sinh trở nên hư hỏng và dốt nát, đặt nền móng chuẩn bị cho việc tẩy não học sinh khi lên đại học. Tri thức của mỗi thế hệ học sinh trở nên ngày càng nông cạn hơn, năng lực tư duy ngày càng kém hơn, quá trình này diễn ra trong 100 năm. Người khởi xướng quá trình này là Dewey, một thủ lĩnh của phong trào giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ, và rất nhiều làn sóng cải cách giáo dục sau đó đa phần đều không thoát ly khỏi tầm ảnh hưởng của giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ. Ngoài việc nhồi nhét cho học sinh thuyết vô thần, thuyết tiến hóa, hình thái ý thức chủ nghĩa cộng sản, giáo dục trung học và tiểu học của Mỹ còn tiến hành khống chế tâm lý học sinh trên quy mô lớn, một mặt phá hoại đạo đức và tín ngưỡng truyền thống của học sinh, mặt khác truyền bá chủ nghĩa đạo đức tương đối và một loạt các quan niệm hiện đại cũng như thái độ sống biến dị. Những người đại diện của ma quỷ nằm rải rác trong các bộ ngành giáo dục, họ đã dùng những thủ đoạn lừa gạt và cưỡng chế vô cùng phức tạp khiến học sinh và công chúng không kịp phòng bị.
2.1) Lợi dụng giáo dục khiến học sinh trở nên dốt nát
Nước Mỹ là quốc gia dân chủ, bên trên là tổng thống và các nghị viên, bên dưới là thị trưởng, quận trưởng, ủy viên các khu v.v., mỗi vị trí đều do dân bầu ra. Chính trị dân chủ có thể đi trên con đường lành mạnh hay không, không chỉ được quyết định bởi tiêu chuẩn đạo đức của nhân dân, mà còn được quyết định bởi trình độ tri thức của họ. Giả sử như, cử tri có rất ít kiến thức về các vấn đề lịch sử, chế độ kinh tế chính trị, vấn đề xã hội thì không thể lý trí mà bầu chọn ra những quan chức biết suy nghĩ cho lợi ích căn bản và lâu dài của quốc gia và xã hội, cũng có nghĩa là đặt quốc gia vào hoàn cảnh nguy hiểm. Năm 1983, bộ giáo dục Mỹ ủy thác cho một tổ chuyên gia tiến hành nghiên cứu, điều tra trong 18 tháng, họ đã viết nên một báo cáo có tên “Đất nước đang trong nguy hiểm (A Nation at Risk)”. Tác giả của báo cáo đã chỉ ra một cách sâu sắc rằng: “Để đất nước của chúng ta có thể vận hành, công dân cần phải có khả năng đạt được một số nhận thức chung về các vấn đề phức tạp trong thời gian ngắn, [cho dù] trên cơ sở là các chứng cứ không đầy đủ hoặc xung đột lẫn nhau. Giáo dục có thể trợ giúp cho nhận thức chung này, trước đây rất lâu Thomas Jefferson đã nói trong câu châm ngôn nổi tiếng của ông: “Ngoại trừ chính bản thân công dân, tôi không biết quyền lực xã hội tối cao còn có thể đặt ở nơi nào an toàn hơn; nếu chúng ta cho rằng họ không có kiến thức đầy đủ để sử dụng quyền lực, thì biện pháp sửa chữa sai lầm không phải là tước đoạt quyền lực từ trong tay họ, mà là cần giúp họ nâng cao nhận thức lên”. Đối với một cá nhân mà nói, nếu kiến thức nông cạn và năng lực tư duy kém thì không thể nào phân biệt được những lời dối trá và lừa gạt của ma quỷ. Tà linh cộng sản biết rõ tác dụng to lớn của giáo dục, vì thế đã thâm nhập vào mọi mặt của thể chế giáo dục, biến học sinh trở thành ngốc nghếch, ngu dốt để cho tà linh dễ dàng khống chế.
Trong bài báo cáo “Đất nước đang trong nguy hiểm” viết: “Nền tảng giáo dục xã hội của chúng ta bị ăn mòn bởi làn sóng tầm thường, nó đã uy hiếp đến tương lai của người dân và quốc gia”, “Nếu hiện tại biểu hiện tầm thường của giáo dục Mỹ là do một quốc gia không hữu hảo áp đặt lên chúng ta, vậy thậm chí nên nhìn nhận nó như một loại hành vi chiến tranh”, “Sau sự kiện vệ tinh Liên Xô, chúng ta không chỉ phó mặc sự tiến bộ về thành tích của học sinh, mà còn phá hủy nền tảng chế độ quan trọng nhất dẫn đến sự tiến bộ. Từ hiệu quả của nó mà nói, chúng ta đã đơn phương cắt giảm giáo dục một cách không tự biết”. Báo cáo dẫn chứng lời của một học giả chỉ ra rằng: “Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta đã xuất hiện tình huống như thế này: kỹ năng giáo dục của một thế hệ không thể vượt qua và không thể đạt được, thậm chí là không thể tiếp cận đến tiêu chuẩn của cha mẹ họ”. [1]
Báo cáo liệt kê một loạt số liệu khiến người ta phải giật mình: ngoại trừ trong các kỳ thi quốc tế thường xuyên đứng cuối, có đến 23 triệu người Mỹ thành niên mù chữ chức năng, tức là chỉ có khả năng đọc viết ở mức căn bản nhất, không thể đáp ứng được yêu cầu sống và làm việc ở mức độ hơi phức tạp một chút; Tỷ lệ mù chữ chức năng trong thanh thiếu niên 17 tuổi là 13%, tỷ lệ này ở nhóm người dân tộc thiểu số có thể đạt đến 40%; Từ năm 1963 đến năm 1980, thành tích trong cuộc thi khảo sát đầu vào đại học-SAT (Scholastic Aptitude Test) liên tục hạ xuống, điểm trung bình môn ngữ văn giảm hơn 50 điểm, điểm trung bình môn toán học giảm gần 40 điểm; thanh thiếu niên 17 tuổi không có năng lực tư duy cao, gần 40% không thể đọc tài liệu để suy luận, chỉ có 1/5 có thể viết được luận văn, chỉ có 1/3 có thể giải những đề toán đòi hỏi vài bước giải. [2]
Sau những năm 1980, những người có hiểu biết sâu sắc trong giới giáo dục Mỹ đã phát động phong trào “quay về với cơ bản (back to basics)”, liệu nó có thể ngăn chặn đà xuống dốc của giáo dục Mỹ hay không? Năm 2008, Mark Bauerlein, giáo sư khoa tiếng Anh đại học Emory đã xuất bản một cuốn sách có tựa đề “Thế hệ dốt nát nhất”, chương đầu tiên của cuốn sách đã tổng hợp kết quả cuộc khảo sát và điều tra đối với Bộ Giáo dục và người dân về một số phương diện lịch sử, kiến thức chung của công dân, toán học và khoa học kỹ thuật, kết quả này đã khái quát sự thiếu hụt kiến thức của học sinh Mỹ. Trong kỳ thi lịch sử đánh giá tiến bộ giáo dục toàn quốc năm 2001, 57% học sinh “không đạt” (below basic), chỉ có 1% đạt “ưu tú” (advanced). Điều khiến người ta kinh ngạc là với câu hỏi vấn đáp quốc gia nào là đồng minh của Mỹ trong chiến tranh thế giới thứ 2, có 52% số người chọn Đức, Nhật Bản, Italia mà không phải là Liên Xô. Kết quả ở một số phương diện khác cũng khiến mọi người thất vọng tương tự. [3]
Rõ ràng là chất lượng giáo dục ở Mỹ đang trượt trên dốc lớn. Từ những năm 1990 đến nay, cụm từ “sa sút trí tuệ” xuất hiện nhiều trong nhiều cuốn sách có liên quan đến vấn đề giáo dục ở Mỹ, trở thành một khái niệm luẩn quẩn được nhiều học giả giáo dục Mỹ mang ra thảo luận. John Taylor Gato, một giáo sư có thâm niên, nhà nghiên cứu giáo dục ở New York viết: “Cầm một cuốn sách giáo khoa toán học hoặc văn học của học sinh lớp 5 vào năm 1850, bạn sẽ phát hiện nội dung thời đó tương đương với tiêu chuẩn đại học ngày nay”. [4] Để không làm cho bảng điểm của giáo dục Mỹ có vẻ quá xấu, Cơ quan khảo thí tiêu chuẩn hóa-ETS (Educational Testing Service) đành phải cân đối lại điểm của cuộc thi khảo sát đầu vào đại học-SAT năm 1994. Năm 1941, khi SAT bắt đầu sử dụng hình thức hiện đại, điểm trung bình của bài kiểm tra môn ngữ văn là 500 điểm (thang điểm cao nhất là 800 điểm), đến những năm 90 điểm trung bình đã hạ xuống 424 điểm, thế là ETS định nghĩa 424 thành 500 điểm, để tránh khiến cho công chúng cảm thấy xấu hổ. [5]
Chất lượng giáo dục đi xuống không chỉ biểu hiện ở năng lực đọc viết của học sinh bị giảm sút, do thiếu nền tảng kiến thức nên năng lực tư duy của học sinh Mỹ cũng bị hạ xuống nhanh chóng. Học giả người Mỹ Thomas Sowell trong những năm 1990 đã chỉ ra rằng, do ảnh hưởng tiêu cực của giáo dục, học sinh không những không biết đọc, không biết tư duy, thậm chí không hiểu tư duy là gì, vì vậy họ “thường lẫn lộn tư duy với cảm giác”. [6] Khác với các nhà lãnh đạo sinh viên nổi loạn nói năng đĩnh đạc trong những năm 1960, hiện nay quan sát những thanh niên tham gia các cuộc biểu tình trên đường phố được phỏng vấn trên các chương trình tin tức trên TV, hiếm khi thấy họ có thể biểu đạt được yêu cầu của mình một cách nhất quán và rõ ràng, bởi vì họ thiếu năng lực tư duy và kiến thức cơ bản.
Nguyên nhân việc thành tích của học sinh bị hạ thấp không phải do học sinh hiện nay không thông minh bằng học sinh trước đây, mà là do hệ thống giáo dục bị tà linh cộng sản khống chế đang âm thầm tiến hành một cuộc chiến nhằm vào thế hệ tiếp theo. Charlotte Thomson Iserbyt, tác giả của cuốn sách “Cố ý làm sa sút trí tuệ nước Mỹ” và là cố vấn chính sách cao cấp của Bộ Giáo dục Mỹ đã nói: “Người dân Mỹ không hiểu được nguyên nhân của cuộc chiến này là gì, cuộc chiến đang ngầm diễn ra trong các trường học của đất nước chúng ta, mục tiêu của nó là những đứa trẻ bị cầm tù trong lớp học”. [7]
2.2) Giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ là công cụ đắc lực của ma quỷ
Giáo dục trung học và tiểu học của Mỹ đã rời xa truyền thống trên quy mô lớn bắt đầu từ phong trào giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ đầu thế kỷ 20. Sau đó, các thế hệ nhà giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ đã bào chế ra lượng lớn những ngôn từ lý luận lẫn lộn đúng sai, làm thay đổi thiết kế giáo trình, làm đơn điệu nội dung giảng dạy, hạ thấp tiêu chuẩn dạy học, khiến hệ thống giáo trình truyền thống bị giải thể nhanh chóng, từ đó tiêu chuẩn giáo dục không ngừng bị hạ thấp.
2.2.1) Từ Rousseau đến Dewey
Cha đẻ của giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ Mỹ là nhà triết học chủ nghĩa hiện thực John Dewey, mà Dewey lại chịu ảnh hưởng cực lớn của nhà tư tưởng thế kỷ 18 của Pháp là Jean-Jacques Rousseau.
Rousseau chủ trương bản tính con người là lương thiện, chính xã hội đã khiến con người bị trượt dốc về đạo đức. Ông cho rằng con người sinh ra là tự do và bình đẳng, trong trạng thái tự nhiên, ai ai cũng có quyền lợi trời ban này, chỉ sau khi nhân loại tiến vào nền văn minh mới xuất hiện hiện tượng bất bình đẳng, đặc quyền và nô dịch giữa người với người, từ đó khiến con người bị mất đi bản tính. Ông chủ trương tiến hành cái gọi là “giáo dục tự nhiên” đối với trẻ em, tức là bỏ mặc khuynh hướng tự nhiên của trẻ em, không tiến hành giáo dục và dẫn dắt về mặt tôn giáo, đạo đức và văn hóa đối với trẻ em.
Mọi người đều biết, nhân tính con người có mặt thiện và ác đồng thời tồn tại, nếu không bồi đắp mặt thiện trong nhân tính, hạn chế mặt ác trong nhân tính, con người sẽ phóng đại vô hạn mặt ác, cuối cùng tất yếu sẽ dẫn đến không điều ác nào là không làm. Với những câu từ văn vẻ, hoa mỹ, đầy tính kích thích, Rousseau đã mê hoặc được rất nhiều người kiến thức nông cạn, nửa vời, tư tưởng giáo dục của ông ta đối với giáo dục phương Tây có tính phá hoại cực lớn hiếm có gì sánh được.
Hơn 100 năm sau, Dewey lại thúc đẩy sự phá hoại do Rousseau khởi xướng tiến thêm một bước lớn. Dưới ảnh hưởng của thuyết tiến hóa của Darwin, Dewey cho rằng trẻ em cũng nên thoát khỏi sự ảnh hưởng của phụ huynh, tôn giáo và văn hóa truyền thống để tự do phát triển và thích ứng với hoàn cảnh. Về mặt đạo đức, Dewey là một người theo chủ nghĩa tương đối và chủ nghĩa thực dụng. Ông ta cho rằng không có đạo đức tối cao và bất biến, mỗi cá nhân đều có thể dựa vào cảm giác của bản thân mình để quyết định nên hành động như thế nào. Chủ nghĩa đạo đức tương đối khuyến khích con người thoát ly khỏi quy phạm đạo đức mà Thần định ra cho con người, từ đó đi bước đi đầu tiên đến sự bại hoại, đây cũng là một bước đi cực kỳ trọng yếu.
Dewey là một trong 33 nhân vật ký tên lên “Tuyên ngôn chủ nghĩa nhân bản” (The Humanist Manifesto) vào năm 1933. Khác với chủ nghĩa nhân văn thời kỳ văn nghệ phục hưng, chủ nghĩa nhân bản xuất hiện trong thế kỷ 20 thực chất là thuyết vô thần, một loại tôn giáo thế tục. Nó kiến lập trên những tư tưởng hiện đại như thuyết tiến hóa, thuyết duy vật, coi con người như máy móc, hoặc là tổng hợp của quá trình hóa học của sinh vật. Vì thế, giáo dục phải dựa trên quan niệm của các nhà giáo dục để nhào nặn và hướng dẫn mọi người, tư tưởng này hoàn toàn đồng nhất với “nhào nặn con người mới chủ nghĩa xã hội” của Marx, về bản chất hoàn toàn giống nhau. Ngoài ra, Dewey cũng là một người theo chủ nghĩa xã hội dân chủ (democratic socialist).
Triết học gia người Mỹ Sidney Hook tin rằng “Dewey đã cung cấp cho chủ nghĩa Marx một bộ nhận thức luận và triết học xã hội, bản thân Marx chỉ lờ mờ ý thức được bộ nhận thức luận và triết học xã hội này, và đã đề cập sơ qua trong các tác phẩm thời kỳ đầu của ông, nhưng chưa từng nói rõ ràng”. [8] Năm 1921, chính phủ Nga còn trong khói lửa nội chiến mà đã tranh thủ xuất bản được một cuốn sổ tay 62 trang, với nội dung là một phần trích dẫn cuốn “Giáo dục và chủ nghĩa dân chủ” của Dewey. Năm 1929, hiệu trưởng trường đại học quốc lập thứ hai của Moscow là Albert P.Pinkerich đã viết: “Dewey vô cùng gần gũi với những người cộng sản Nga và Marx.” [9] Alan Ryan đã nói trong cuốn truyện ký về Dewey rằng: Dewey “đã cung cấp vũ khí tư tưởng cho một chủ nghĩa Mác [dưới dạng] chủ nghĩa dân chủ xã hội và chủ nghĩa phi cực quyền”. [10]
Giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ đã nói thẳng không che đậy rằng cần thay đổi thái độ nhân sinh của học sinh. Để thực hiện mục tiêu này, họ đã thiết kế lại chương trình học, nội dung sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy của giáo viên và quan hệ thầy trò. Giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ cổ súy việc lấy học sinh (hoặc nhi đồng) chứ không phải lấy giáo viên làm trung tâm, lấy kinh nghiệm cá nhân mà không phải dùng kiến thức trong sách vở làm trung tâm, lấy hoạt động (project, activity) mà không phải lấy việc giảng dạy trên bục giảng làm trung tâm. Tạp chí “Nhân sự” của phái bảo thủ Mỹ đã xếp cuốn “Giáo dục và chủ nghĩa dân chủ” của Dewey đứng thứ 5 trong “những cuốn sách nguy hại nhất thế kỷ 19 và thế kỷ 20”, tờ tạp chí đã bình luận sắc bén rằng, đối với Dewey, việc trường học truyền thống bồi dưỡng phẩm chất đạo đức của học sinh và truyền thụ tri thức đều không quan trọng, ông ta chỉ nhấn mạnh vào “kỹ năng” tư duy (thoát ly khỏi tri thức căn bản). [11]
Ngay từ khi chủ nghĩa tiến bộ mới sinh ra, một số nhân sỹ nhìn xa trông rộng đã từng phê bình nó, một cuốn sách nhỏ xuất bản năm 1949 tên là “Giáo dục điên cuồng: một thường dân nhìn nhận giáo dục công lập Mỹ” (And Madly Teach: A Layman Looks at Public School Education), đại ý là bác bỏ những giáo điều chủ yếu của giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ. [12] Các học giả giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ đã gọi những người phê bình là “phái phản động”, họ phản bác lại bằng mọi cách, đến khi đuối lý hết từ thì lại ra vẻ làm ngơ.
Dewey làm giáo sư trọn đời hơn 50 năm tại đại học Colombia, trong thời gian ông ta quản lý Học viện giáo viên (Teacher’s College), ít nhất 1/5 số hiệu trưởng các trường trung học và tiểu học của Mỹ được đào tạo hoặc được nhận các học vị cao cấp của đại học Colombia. [13] “giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ” cũng từ nước Mỹ mà lan ra toàn cầu.
Khác với Marx, Engels, Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông, Dewey không có dã tâm làm một bậc thầy cách mạng, cũng không ngông cuồng phát động cách mạng thế giới, cả đời ông ta là một giáo sư và một học giả, nhưng phong trào giáo dục mà ông ta khởi xướng lại trở thành một trong những công cụ đắc lực nhất của ma quỷ.
2.2.2 Lấy cớ “bản tính con người vốn lương thiện” để mặc cho học sinh phát triển tự nhiên
Căn cứ theo lý luận giáo dục của Rousseau, con người sinh ra vốn là tự do và lương thiện, nhưng bị xã hội làm hư hỏng, vì thế cách giáo dục tốt nhất chính là buông lỏng để cho trẻ em tự do phát triển.
Chịu ảnh hưởng tư tưởng của Rousseau, các nhà giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ theo sau Dewey thường lấy quan điểm này làm câu cửa miệng: Không được áp đặt quan niệm của phụ huynh hoặc giáo viên lên học sinh, hãy để chúng tự đánh giá và lựa chọn sau khi lớn lên. Nhà thơ người Anh S.T.Coleridge từng sắc sảo phản bác lại quan điểm này như sau: (Một người bạn) cho rằng, [nhân lúc] trước khi trẻ em trưởng thành đến mức chúng có thể tự đánh giá để đưa ra quyết định mà ảnh hưởng đến tư tưởng của chúng, là việc rất không nên. Tôi (bản thân nhà thơ) đưa anh ta (người bạn) đi xem khu vườn của tôi, tôi nói với anh ta rằng đây là vườn cây của tôi. Anh ta nói: “Sao có thể như vậy được? Ở đây toàn là cỏ dại”. Tôi nói: “Ồ, đó là do nó chưa phát triển đủ lớn để có thể tự đánh giá và đưa ra quyết định. Anh xem, những cây cỏ dại cứ tự nhiên lớn lên, giả sử tôi làm cho đất có thiên hướng lệch về phía hoa hồng và dâu tây, tôi cho rằng rất không nên làm vậy. [14]
Nhà thơ đã rất trí tuệ khi dùng hình ảnh so sánh này để nói với người bạn một đạo lý rằng: đức tính tốt đẹp và trí tuệ cần được bồi dưỡng tỉ mỉ, giống như vườn hoa nếu không được chăm sóc sẽ chỉ mọc toàn cỏ dại, bỏ mặc trẻ em không khác nào giao chúng cho thế lực tà ác đang nhìn chằm chằm như hổ đói, đó là biểu hiện của thái độ cực đoan và vô trách nhiệm. Thiện và ác đồng thời tồn tại trong bản tính con người, so với người trưởng thành, trẻ em mặc dù ngây thơ, trong sáng nhưng vẫn có những mặt không tốt như tính ham chơi, lười biếng, đố kỵ, tranh đấu, tự tư v.v. Hơn nữa, xã hội giống như thùng thuốc nhuộm lớn, đem thả những đứa trẻ mang các loại ma tính này vào thùng thuốc nhuộm đầy các yếu tố độc hại, đợi đến khi “tự bản thân chúng có thể phán đoán và đưa ra quyết định” thì e rằng chúng đã bị tiêm nhiễm vào đầu rất nhiều tư tưởng và thói quen xấu, đến lúc đó mới dạy dỗ thì đã quá muộn.
Giáo dục theo hướng tự nhiên được đẩy đến đỉnh cao sau khi một cuốn sách về giáo dục có tên “Trường Summerhill: Một hình thức giáo dục trẻ nhỏ cực đoan” được xuất bản. Tác giả của cuốn sách Alexander Neal đã thành lập một trường nội trú Summerhill ở Anh vào năm 1921, chiêu sinh các trẻ em từ 6-16 tuổi. Đặc điểm của trường này là cho phép học sinh hoàn toàn tự do. Học sinh có thể lựa chọn lên lớp học hoặc không lên, có thể lựa chọn học môn này hoặc học môn kia. Tư tưởng giáo dục của Neal chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Wilhelm Reich, nhà lý luận phái Frankfurt và là người cổ súy giải phóng tình dục mạnh mẽ nhất, hai người vẫn thường xuyên liên lạc với nhau. Nhà trường không chỉ cực đoan vứt bỏ trách nhiệm và đi ngược lại quan điểm truyền thống về mặt học thuật mà cả về đạo đức, kỷ luật và quan hệ nam nữ. Nam nữ tùy tiện hẹn hò, sống chung, nhà trường vờ như không biết thậm chí còn ngấm ngầm cho phép. Neal cho phép nhân viên và học sinh cùng tắm khỏa thân ở bể bơi, cậu con trai 35 tuổi của ông ta thường đưa những nữ sinh khác nhau về nhà sống cùng. [15] Trong cuốn sách, Neal nói không biết ngượng rằng ở trường Summerhill mỗi học sinh [tuổi] lớn một chút đều biết, ông ta cho rằng mỗi người dù lớn hay nhỏ đều nên được hưởng quyền sinh hoạt tình dục trọn vẹn. [16] Ông ta thậm chí còn ám chỉ rằng, nếu không phải là pháp luật không cho phép, ông ta chắc chắn sẽ cho phép nam nữ ở chung với nhau. [17] Sau khi được xuất bản, “Summerhill” nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy, chỉ trong những năm 1960 đã bán được hơn 3 triệu bản, nó gần như đã trở thành cuốn sách “kinh điển” mà tất cả giáo viên và học sinh buộc phải đọc.
Có một câu thành ngữ cổ của Trung Quốc là: “Nghiêm sư xuất cao đồ” (thầy nghiêm khắc mới dạy được trò giỏi). Những người có học thức ở phương Tây cũng phát hiện, một giáo viên nghiêm khắc thường dạy học trò tốt hơn, đồng thời có ảnh hưởng tốt đối với phẩm hạnh của học sinh. [18] Đáng thương là, nước Mỹ và rất nhiều quốc gia phương Tây chịu ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục tự nhiên của chủ nghĩa tiến bộ đã xây dựng pháp luật để hạn chế phụ huynh và giáo viên quản lý học sinh. Điều này đã khiến cho giáo viên ngày nay không dám giáo dục học sinh, những thói hư tật xấu của học sinh không được sửa chữa kịp thời, khiến cho chuẩn mực đạo đức và thành tích học tập của học sinh đều xuống dốc nhanh chóng.
2.2.3 Dùng danh nghĩa “học sinh là trung tâm” để phủ nhận quyền uy và truyền thống của giáo viên
Một trong những vai trò quan trọng nhất của giáo dục là duy trì và kế thừa văn hóa chính thống của nhân loại, giáo viên đóng vai trò then chốt trong việc kế thừa và sáng tạo trong quá trình giáo dục. “Sư giả, sở dĩ truyền đạo, thụ nghiệp, giải hoặc dã” (người làm thầy, cũng là người truyền đạo, dạy học và giải đáp thắc mắc) Tư tưởng giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ của Dewey đã xóa bỏ vị thế quyền uy của giáo viên, hạ thấp vai trò quan trọng của giáo viên trong quá trình giáo dục, kỳ thực điều này là phản tri thức, phản lẽ thường và phản giáo dục.
Những người giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ tuyên bố rằng giáo dục cần lấy học sinh làm trung tâm, cho phép học sinh tự tìm tòi để tìm ra đáp án. Nội dung trong sách giáo khoa truyền thống được tích lũy từ nền văn minh hàng nghìn năm của nhân loại, mà những học sinh ít tuổi, tri thức nông cạn làm sao trong thời gian ngắn có thể tìm ra đáp án? Dụng ý thực sự của tư tưởng giáo dục hoang đường này là cắt đứt mối liên hệ của học sinh với văn hóa truyền thống. Phủ nhận quyền uy của giáo viên trong quá trình giáo dục chính là đã phủ định việc truyền thừa nền văn minh. Ở đây dụng tâm hiểm ác của ma quỷ đã được bộc lộ rõ ràng.
Cuốn “Bảy tư tưởng hoang đường liên quan đến giáo dục” của Daisy Cristal đã phân tích và phê phán 7 quan niệm sai lầm được lưu truyền rộng rãi, bao gồm: (ghi nhớ) sự thực gây chướng ngại cho việc tìm hiểu; việc dạy học lấy giáo viên làm chủ đạo là tiêu cực, thiết kế và hoạt động là phương pháp học tập tốt nhất; dạy tri thức đồng nghĩa với nhồi nhét tri thức v.v. [19] Những tư tưởng hoang đường này đa phần bắt nguồn từ giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ, nhưng qua sự truyền thừa qua các thế hệ, nó đã trở nên thâm căn cố đế, trở thành căn bệnh nguy hại khó chữa của giáo dục. Cristal là người Anh, đa số những ví dụ được sử dụng trong tác phẩm của ông đều là ví dụ của nước Anh, từ đó có thể thấy quan niệm giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ đã lây lan toàn cầu.
Chỉ lấy tư tưởng hoang đường đầu tiên làm ví dụ. Giáo dục Mỹ hiện đại phê phán phương thức dạy học truyền thống vốn xem trọng việc học thuộc và luyện tập, rằng đó là “học thuộc như cái máy”, “học vẹt (rote learning)” hay là “luyện tập đến chết (drill to kill)”, chắc chắn mỗi người đều không lạ gì điều này. Sau khi Rousseau xuất bản cuốn tiểu thuyết giáo dục “Emile”, lần đầu tiên đưa ra quan điểm phản đối việc học thuộc và học tập sách vở (verbal lessons), Dewey và các nhà giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ sau đó đã phát huy và mở rộng nó theo các hướng khác nhau. Năm 1955, nhà tâm lý học giáo dục người Mỹ Benjamin Bloom đã đề xuất “phương pháp phân loại Bloom” nổi tiếng, phân nhận thức của con người thành 6 cấp độ từ thấp đến cao: thuộc, hiểu, ứng dụng, phân tích, đánh giá và sáng tạo, trong đó 3 cấp độ sau sở dĩ được suy tôn là do đề cập đến năng lực vận dụng tổng hợp, được gọi là “tư duy cao cấp” (higher order thinking). Ở đây chúng tôi không có ý định phân tích những ưu nhược điểm của bản thân phương pháp phân loại Bloom, chỉ muốn chỉ ra rằng từ sau khi phương pháp phân loại này được đề xuất, các nhà giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ liền lấy việc bồi dưỡng “tư duy cao cấp” làm cái cớ để ngày càng coi nhẹ việc truyền thụ tri thức trong trường học.
Bất cứ người có kiến thức phổ thông nào đều biết, kiến thức căn bản là cơ sở của việc tổng hợp, sáng tạo, nếu không tích lũy được lượng tri thức tương ứng thì những cái gọi là “tư duy cao cấp”, “tư duy phản biện” và “tư duy sáng tạo” đều là những lời nói mê sảng lừa mình dối người. Phương pháp phân loại Bloom vừa vặn cung cấp cơ sở trông có vẻ khoa học cho những nhà giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ lòng dạ khó lường, những giáo viên không có trách nhiệm và những học sinh lười biếng.
Một tầng hàm nghĩa của phương pháp dạy học “lấy học sinh làm trung tâm” là học sinh có thể lựa chọn học môn gì và không học môn gì tùy theo hứng thú của mình, giáo viên cũng cần phải biết những môn nào học sinh quan tâm, hứng thú. Quan điểm này tưởng đúng mà lại hóa sai. Tất nhiên giáo viên nào cũng mong muốn một môi trường dạy học vui vẻ. Nhưng thiếu niên, nhi đồng tri thức nông cạn, tầm nhìn hạn hẹp, sẽ không đủ năng lực phán đoán nội dung trọng yếu nào cần phải học. Giáo viên nên nhận trách nhiệm dẫn dắt, định hướng học sinh, giúp học sinh liên tục vượt qua tầm nhìn hạn hẹp và hứng khởi nông cạn của bản thân. Còn hùa theo hứng khởi nông cạn của học sinh sẽ chỉ khiến cho học sinh mãi không lớn được, những giáo viên như vậy đang lừa gạt phụ huynh và học sinh, thực ra cũng là vô trách nhiệm đối với xã hội. Nghiên cứu phát hiện rằng xã hội Mỹ đã xuất hiện xu hướng người trưởng thành bị ấu trĩ hóa. Năm 2002, viện hàn lâm khoa học quốc gia Mỹ đã định nghĩa tuổi dậy thì là giai đoạn từ 12 đến 30 tuổi, Quỹ MacArthur thậm chí còn mở rộng hơn, họ cố gắng chứng minh một cá nhân 34 tuổi mới được coi là bắt đầu trưởng thành. [20] Giáo dục và truyền thông nên phải chịu trách nhiệm chính cho hiện tượng người trưởng thành bị ấu trĩ hóa này.
Một cái cớ mà giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ đưa ra để hạ thấp yêu cầu đối với giảng dạy là, cùng với việc phổ cập giáo dục sẽ có nhiều người học lên trung học và đại học hơn nên không thể yêu cầu họ đạt đến trình độ bình quân của trường học trước kia. Đây là một nhận thức sai lầm. Để giáo dục thích ứng với xã hội dân chủ thì phải giúp những người trước kia không có cơ hội được giáo dục nay được tiếp cận giáo dục, chứ không phải hạ thấp tiêu chuẩn giáo dục để tất cả mọi người được bình đẳng tiếp cận một nền giáo dục kém chất lượng. Chủ nghĩa tiến bộ tuyên bố thay thế những chương trình học cổ điển vô tác dụng như tiếng Hy Lạp và tiếng La Tinh bằng những chương trình học mang hơi thở thời đại. nhưng kết quả là phần lớn các trường học lại không hề đưa ra những chương trình học có chất lượng cao liên quan mang hơi thở thời đại, như những chương trình học toán, lý, hóa, kinh tế học, lịch sử hiện đại… ở mức độ chuyên sâu nhất định. Những môn được giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ coi trọng là những môn không liên quan đến học thuật như lái xe, nấu ăn, làm đẹp, phòng ngừa tai nạn v.v. Những chương trình cải cách giáo trình, cải cách phương pháp dạy do giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ đề xướng đa phần chỉ là khoác lên mình cái áo sặc sỡ, nó đã lừa dối những học sinh còn chưa hiểu biết việc đời, những phụ huynh đầy lòng kính trọng đối với trường học, giáo viên và chuyên gia.
Nhìn nhận một cách độc lập, những phương pháp giáo dục do giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ đề xuất không phải là không có tác dụng đối với một số môn học hoặc nội dung giảng dạy nào đó. Nhưng liên hệ giữa bối cảnh cụ thể của phong trào giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ và hiệu quả của nó thì sẽ phát hiện giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ lợi dụng một bộ lý luận để đả kích giáo dục truyền thống, từ đó làm biến dị giáo dục và cuối cùng phá hủy giáo dục.
2.3 Lợi dụng giáo dục khiến học sinh trở nên hư hỏng
Ngày 20/4/1999, hai học sinh cấp 3 ở trường Trung học Columbia, bang Colorado, Mỹ đã gây ra một cuộc thảm sát được lên kế hoạch kỹ lưỡng, giết chết 10 bạn học sinh, 1 giáo viên và làm hơn 20 người bị thương, hai học sinh này đã tự sát sau khi đấu súng giằng co với cảnh sát địa phương. Thảm kịch này đã gây chấn động xã hội Mỹ, người ta xôn xao bàn tán, phân tích xem điều gì đã khiến cho 2 học sinh này chống lại xã hội một cách tàn nhẫn, đẫm máu như vậy, sao chúng lại ra tay sát hại cả những bạn học thân thiết và giáo viên của mình một cách bất ngờ như vậy?
Một nhà làm công tác giáo dục quan tâm nghiên cứu lịch sử đã quan sát thấy rằng, trước những năm 1960, vấn đề kỷ luật chủ yếu của các trường học ở Mỹ là các hành vi nhỏ như đến lớp muộn, nói chuyện riêng trong lớp, nhai kẹo cao su v.v., sau những năm 1980, là uống rượu, hút ma túy, quan hệ tình dục trước hôn nhân, mang thai, tự sát, tội phạm băng đảng, thậm chí là nổ súng giết người. Xu thế đáng sợ này khiến cho những người có học thức vô cùng lo lắng, nhưng rất ít người biết được căn nguyên thực sự của sự thay đổi này, càng không nói đến việc tìm biện pháp chữa trị thích hợp.
Sự biến dị và trượt dốc về đạo đức của thanh thiếu niên Mỹ là kết quả do tà linh cộng sản lợi dụng những người đại diện của nó tại nhân gian mà cố ý gây ra.
2.3.1 Nhồi nhét Thuyết tiến hóa và thuyết vô Thần
Tiến sỹ Fred Schwartz tác giả của cuốn sách “Bản tính khó đổi của những người theo chủ nghĩa cộng sản” và là người tiên phong trong vận động chống cộng sản ở Mỹ, đã nhạy bén quan sát thấy rằng: “Ba tín điều cơ bản của chủ nghĩa cộng sản là thuyết vô thần, thuyết tiến hóa và thuyết kinh tế quyết định. Ba tín điều cơ bản của trường học công lập Mỹ cũng là thuyết vô thần, thuyết tiến hóa và thuyết kinh tế quyết định”. [21] Cũng có nghĩa là hình thái ý thức chủ nghĩa cộng sản đã trở thành tư tưởng chủ đạo của các trường học Mỹ!
Thần đã tạo ra con người, đồng thời đặt định cho con người quy phạm đạo đức và quy định ra phương thức sinh hoạt của con người. Tín Thần kính Thần là cơ sở của hết thảy đạo đức, cũng là sự đảm bảo cho sự tồn tại của xã hội nhân loại. Phương thức quan trọng nhất mà tà linh cộng sản dùng để phá hoại đạo đức chính là cưỡng chế phổ biến rộng rãi thuyết vô thần và thuyết tiến hóa trong các trường học. Ở Trung Quốc và các quốc gia cộng sản thời Liên Xô cũ, không khó để hiểu được phương thức cưỡng chế kiểu này. Nhưng ở Mỹ, thuyết tiến hóa cũng bị cưỡng chế tiếp nhận như thế.
Những người đại diện của tà linh cộng sản mượn chính sách tách biệt nhà thờ và nhà nước ở Mỹ để phản đối việc trường học công lập giảng dạy “thuyết Thần sáng thế”, chỉ được dạy “thuyết tiến hóa ”. Các trường học công lập không dám vượt ra khỏi giới hạn này. Không nghi ngờ gì kiểu giáo dục này khiến cho số người tin vào Thần ngày càng ít đi, con người càng ngày càng coi thuyết tiến hóa là “chân lý khoa học”.
Ngoài ra, bắt đầu từ những năm 1960, mượn cớ “tách biệt nhà thờ và nhà nước”, tòa án các nơi ở Mỹ đã loại bỏ việc đọc “Kinh Thánh” khỏi các trường học. Ví dụ một tòa án nào đó đưa ra phán quyết, ngoài các chủ đề tôn giáo, học sinh được hưởng quyền tự do ngôn luận và báo chí, nhưng một khi đề cập đến tôn giáo thì ngôn luận này chính là vi phạm hiến pháp. Năm 1987, tại trường công lập Alaska, học sinh được thông báo không được sử dụng từ “lễ Noel” trong trường học, bởi vì từ này có hàm nghĩa “Cơ đốc”. Tòa án liên bang Virginia đã phán quyết rằng báo về đồng tính luyến ái có thể được phát trong trường học, nhưng báo tôn giáo thì không. Năm 1993, tại thành phố Springfield, bang Colorado, một giáo viên dạy âm nhạc tiểu học bị cấm dạy hát các bài hát giáng sinh, lý do là nó vi phạm nguyên tắc tách biệt nhà thờ và nhà nước. [22]
Với khuynh hướng phản Thần trong toàn bộ cơ cấu giáo dục lại thêm ảnh hưởng của làn sóng “đúng đắn chính trị” trong mấy chục năm qua, ở Mỹ việc thẩm tra tài liệu giảng dạy và tài liệu thi hà khắc đến mức độ hoang đường. Năm 1997, nhà sử học Diane Ravitch từng tham gia thẩm tra và sát hạch nội dung thi tại một cơ quan thuộc Bộ Giáo dục. Cô kinh ngạc phát hiện một câu truyện ngụ ngôn nổi tiếng vốn có ngụ ý ban đầu là “Thượng đế cứu giúp người tự biết giúp mình (God helps those who help themselves)”, nhưng vì trong đó xuất hiện từ “Thượng đế” nên câu này bị viết lại thành: “chỉ cần có khả năng thì con người nên nỗ lực để tự giải quyết vấn đề của mình”. [23]
Hệ thống giáo dục công lập của Mỹ một mặt lấy cớ “tách biệt nhà thờ và nhà nước” để bài trừ, trục xuất tín ngưỡng Thần khỏi các trường học, mặt khác dùng danh nghĩa “khoa học” để biến “thuyết tiến hóa” không hề có căn cứ khoa học và đầy rẫy sơ hở trở thành chân lý hiển nhiên không cần chứng minh, rồi nhồi nhét vào đầu những đứa trẻ vốn không có sự chuẩn bị tư tưởng cũng như không có khả năng chống cự. Mọi người đều biết, trẻ em thường tin tưởng vào quyền uy của giáo viên, những bậc phụ huynh có tín ngưỡng cũng thường dạy bảo con cái phải kính trọng thầy cô giáo, nhưng sau khi bị cưỡng chế nhồi nhét thuyết tiến hóa, trẻ em sẽ chống lại giáo dục tín ngưỡng của cha mẹ, hoặc ít nhất cũng không còn coi trọng việc giáo dục tín ngưỡng của cha mẹ nữa, hậu quả là trường học đã cưỡng chế mà đoạt lấy những đứa trẻ những người cha, người mẹ có tín ngưỡng. Đây là vấn đề lớn nhất mà rất nhiều gia đình theo tín ngưỡng phải đối diện khi giáo dục con cái, đây cũng là sự tà ác nhất trong việc giáo dục phản đối Thần của các trường học.
2.3.2 Nhồi nhét hình thái ý thức Chủ nghĩa Cộng sản
Chương thứ 5 của cuốn sách này đã trình bày khá kỹ lưỡng về bản chất của “đúng đắn chính trị”. Đúng đắn chính trị là cảnh sát tư tưởng của ma quỷ, thực chất nó dùng một tiêu chuẩn biến dị để thay thế tiêu chuẩn đạo đức chính thống. Tư tưởng chủ nghĩa cộng sản bắt đầu len lỏi vào các trường học ở Mỹ từ những năm 1930, đến ngày nay đúng đắn chính trị gần như đã chiếm địa vị thống trị độc tôn trong hệ thống giáo dục Mỹ, trong thực thi cụ thể, nó thể hiện ở rất nhiều hình thức khác nhau, có tính mê hoặc rất lớn.
Merill Root tác giả của cuốn sách “Tẩy não ở trung học” xuất bản những năm 1950 đã nghiên cứu 11 loại tài liệu giảng dạy môn lịch sử được sử dụng trong những năm 1950-1952 ở bang Illinois, ông phát hiện rằng những tài liệu giảng dạy này đã mô tả lịch sử nước Mỹ thành lịch sử đấu tranh giữa người giàu và người nghèo, giữa giai cấp đặc quyền và những người không có quyền, mà đây chính là “tinh túy” trong thuyết kinh tế quyết định của chủ nghĩa Marx. Những cuốn sách này cổ súy cho việc xây dựng một chính phủ thế giới, mối quan tâm toàn cầu vượt trên lợi ích dân tộc, cuối cùng thực hiện chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. [24]
Theo báo cáo, năm 2013 một khu học xá ở Minnesota đã thông qua một kế hoạch gọi là “mọi người vì mọi người” (all for all), chuyển nhiệm vụ trọng tâm của khu học xá từ giảng dạy sang “bình đẳng chủng tộc” (racial equity). Bình đẳng ở đây chỉ hệ tư tưởng chính trị chủng tộc, loại hình thái ý thức này quy kết nguyên nhân học sinh dân tộc thiểu số có kết quả học tập kém là do chế độ hiện nay có sự kỳ thị và thành kiến đối với chủng tộc, từ đó dốc sức loại bỏ “đặc quyền của người da trắng”. Kế hoạch này yêu cầu tất cả mọi hoạt động giảng dạy đều dựa trên xuất phát điểm là bình đẳng chủng tộc, trường học chỉ tuyển dụng những nhân viên quản lý và giáo viên có ý thức bình đẳng chủng tộc. Kế hoạch này được bắt đầu thực thi từ mẫu giáo, chủ đề của khóa học tiếng anh lớp 10 là thuộc địa hóa, cơ cấu xã hội của dân di cư, chủng tộc, giai cấp và giới tính, còn đề cương chương trình học lớp 11 tuyên bố “khi kết thúc khóa học này, (học sinh) sẽ học được cách sử dụng phương pháp chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa nữ quyền, chủ nghĩa hậu thực dân, phương pháp phân tích tinh thần để phân tích các tác phẩm văn học”. [25]
Tháng 7 năm 2016, California đã thông qua đề cương mới của môn lịch sử và môn khoa học xã hội ở bậc trung học và tiểu học, khiến cho những đề cương vốn mang tư tưởng tả khuynh này lại càng giống những sách tuyên truyền hình thái ý thức cánh tả hơn. Nội dung giảng dạy lẽ ra phải là những nội dung về lịch sử và khoa học xã hội như tinh thần lập quốc, quân sự, chính trị, lịch sử ngoại giao của nước Mỹ, nhưng những nội dung này đều bị cố ý làm mờ nhạt hoặc giản lược đi, ngược lại các phong trào phản truyền thống những năm 1960 lại được chú trọng, dường như đây mới là nguyên tắc lập quốc mới của nước Mỹ. Trên phương diện gia đình và giới tính, đề cương này cực kỳ phản truyền thống. Lấy ví dụ chương trình học lớp 11, đề cương này tuyên bố trọng tâm của nó là “phong trào đòi quyền bình đẳng đối với chủng tộc, dân tộc, tôn giáo, nhóm giới tính thiểu số và nữ giới”, thực chất nó rất ít đề cập đến tôn giáo mà lại đề cập rất nhiều đến nhóm giới tính thiểu số, đặc biệt là lần đầu tiên nhóm người LGBT (người đồng tính và chuyển giới) được đưa vào chương trình học lịch sử, trở thành trọng điểm của chương trình học lịch sử lớp 11. Giọng điệu trong đó ngày càng có khuynh hướng ủng hộ “giải phóng tình dục”, trong phần liên quan đến bệnh AIDS, đề cương này ám chỉ nỗi sợ hãi của mọi người đối với bệnh AIDS đã dẫn đến sự thoái trào của “phong trào giải phóng tình dục”. [26] Tình dục chiếm quá nhiều trong các đề cương, khiến nhiều nội dung khác đáng chú ý hơn bị loại bỏ. Ví dụ như khi học về Chiến tranh thế giới thứ nhất, điều mà học sinh học được không phải là vai trò quan trọng của quân đội Mỹ trong chiến tranh, mà là binh lính Mỹ đã phát hiện ra quan niệm tình dục ở châu Âu khiến họ rất thoải mái, vui vẻ. [27] Đề cương mang tư tưởng cực tả đầy rẫy những thành kiến và bóp méo sự thật này đã dẫn dắt học sinh thù hận đất nước của mình. Đề cương này được sử dụng ở California, nhưng lại gây ảnh hưởng tiêu cực tới toàn quốc. [28]
2.4 Giáo dục quy mô lớn dẫn đến khống chế tâm lý
Việc lợi dụng giáo dục để khiến học sinh trở nên hư hỏng còn bao gồm một thủ đoạn quan trọng nữa, đó là khống chế tâm lý trong giáo dục (psychological conditioning) trên quy mô lớn, nhồi nhét chủ nghĩa đạo đức tương đối.
Tháng 3/1984, hàng trăm phụ huynh học sinh và giáo viên đã tham gia phiên điều trần “tu chính án bảo hộ quyền lợi của học sinh” do 7 thành phố trong đó có Washington, Seattle, Pittsburgh chủ trì tổ chức. Lời khai của phiên điều trần lên đến hơn 1300 trang, nhà tư tưởng phái bảo thủ là Phillis Schlafly đã biên tập lại những lời khai này viết thành cuốn sách có tên “Ngược đãi trẻ em trong phòng học”, được xuất bản vào tháng 8 năm đó.
Schlafly dùng khái niệm “giáo dục theo phương thức trị liệu tâm lý” để khái quát những vấn đề được đề cập trong lời khai tại phiên điều trần. Khác với giáo dục truyền thống vốn lấy việc truyền thụ tri thức làm mục đích chủ yếu, giáo dục theo phương thức trị liệu tâm lý nỗ lực để thay đổi thái độ và tình cảm của học sinh, sử dụng thời gian giảng dạy để yêu cầu học sinh chơi các trò chơi tâm lý, điền vào bảng miêu tả các vấn đề của cá nhân, ép buộc trẻ em đưa ra quyết định về các vấn đề của người lớn như tự sát và mưu sát, kết hôn và ly hôn, phá thai và nhận con nuôi. [29]
Trên thực tế, những chương trình học này không hề được thiết kế để giúp mang lại tâm lý lành mạnh cho học sinh, mục đích của nó là thông qua việc khống chế tâm lý để thay đổi giá trị quan của học sinh.
2.4.1 Tâm lý học và giáo dục học
Cơ sở của giáo dục hiện đại là tâm lý học và triết học. Ngoại trừ giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ của Dewey, gây ảnh hưởng to lớn tới giáo dục Mỹ hiện đại còn có phân tích tinh thần học của Freud và tâm lý học chủ nghĩa nhân bản mà đại biểu là Carl Rogers, còn phái Frankfurt lại là sự tổng hợp của chủ nghĩa Marx và học thuyết Freud. Ví dụ, nhà lý luận phái Frankfurt – Marcuse chủ trương nếu về phương diện kinh tế loại trừ “giá trị thặng dư” thì về phương diện cuộc sống cá nhân cũng cần loại bỏ “áp lực thặng dư”. [30] Ông chủ trương giải phóng bản năng, giải phóng cá tính, hỗ trợ thúc đẩy phong trào phản văn hóa những năm 1960.
Nhà tâm lý học người Canada Brock Chisholm, giám đốc đầu tiên của Tổ chức y tế quốc tế (WHO), người chịu ảnh hưởng sâu sắc của những trường phái tâm lý học nêu trên đã phát biểu trong một lần thuyết giảng năm 1946 rằng:
Trong mỗi nền văn minh đều tồn tại một loại tâm lý méo mó … Nó là một loại lực lượng ngăn trở con người nhìn thấy và thừa nhận sự thật hiển nhiên, loại lực lượng này khiến con người sinh ra cảm giác tự ti, tội lỗi và sợ hãi … Nhân tố tâm lý duy nhất có thể sinh ra những biến thái này là đạo đức, quan niệm đúng sai … Cảm giác tự ti, tội lỗi và sợ hãi do con người áp đặt lên này thông thường được gọi là “tội” (sin) … Loại tình huống này khiến cho những người này không thể thích ứng được với xã hội, hơn nữa không thể cảm thấy vui vẻ … Thoát khỏi đạo đức có nghĩa là tự do quan sát, suy nghĩ và là hành vi sáng suốt … Nếu muốn tất cả các chủng tộc thoát khỏi gánh nặng nghiêm trọng của thiện và ác, thì các nhà tâm thần học cần phải gánh vác sứ mệnh đầu tiên. [31]
Xuất phát từ một lý luận sai lầm, Chisholm đã đề xuất một lý luận khiến mọi người đều kinh hãi: để giải thoát con người khỏi nỗi thống khổ tâm lý, cần phải phá bỏ đạo đức và quan niệm phải trái, đúng sai, mà chịu trách nhiệm phát động chiến dịch nhằm vào đạo đức này chính là các nhà tâm thần học. Không biết có phải lấy ý tưởng từ Chisholm hay không mà nhà tâm lý học chủ nghĩa nhân bản là Carl Rogers đã phát minh ra chương trình học “Làm rõ giá trị quan (values clarification)”, chương trình này về mặt khách quan đã gây tác dụng phá hoại đạo đức truyền thống và quan niệm đúng sai của nhân loại.
Vậy là chủ nghĩa đạo đức tương đối của Dewey, học thuyết áp lực của phái Frankfurt cùng lý luận tâm lý học của Chisholm hợp thành một dàn hợp xướng lớn phản đối truyền thống đạo đức, cùng nhau phá hoại phòng tuyến đạo đức trong các trường học Mỹ.
2.4.2 Dùng chủ nghĩa đạo đức tương đối để làm lẫn lộn giá trị quan của học sinh
Rất nhiều người Mỹ đi học vào cuối những năm 1970 đều còn nhớ một tiết học như thế này, giáo viên yêu cầu học sinh tưởng tượng một tình huống: Sau khi tàu bị đắm, một số người bị buộc phải lên thuyền cứu sinh, trong đó có thuyền trưởng, nhiều trẻ em, một phụ nữ có thai, một người đồng tính nam. Do thuyền cứu sinh bị quá tải, cần phải có một người rời khỏi thuyền cứu sinh. Giáo viên cho học sinh thảo luận để ai xuống khỏi thuyền, chính là quyết định xem ai là người nên từ bỏ sinh mệnh, nhưng giáo viên lại không có bất cứ lời phán xét nào về cuộc thảo luận của học sinh.
Đây là một câu chuyện thường được sử dụng trong các tiết học “làm rõ giá trị quan” được đưa vào giảng dạy trong những năm 1970. Ngoài việc làm rõ giá trị quan ra, chương trình học này còn có những nội dung như đưa ra quyết định (decision making), giáo dục tình cảm (affective education), tìm hiểu (quest), phòng chống ma túy, giáo dục giới tính v.v.
William Kilpatrick, tác giả cuốn sách “Vì sao Johnny không thể phân biệt đúng hay sai?” miêu tả những cuộc thảo luận trên lớp học này đã biến thành những cuộc nói chuyện tự do không mục đích, trao đổi quan điểm qua lại, mãi mãi không có kết luận. Giáo viên trở thành người dẫn chương trình, dẫn dắt học sinh biện luận các vấn đề như trò chơi đổi vợ cho nhau, tập tục ăn thịt người, dạy trẻ em thủ dâm. Các khóa học loại này dẫn dắt học sinh vứt bỏ các giá trị quan được nuôi dưỡng trong gia đình, nhưng lại sinh ra một ấn tượng sai lầm rằng tính đúng sai trong hành vi và tư tưởng chỉ thuần túy là do quan niệm chủ quan, cuối cùng gây nên sự hỗn loạn toàn diện trong giá trị quan về đạo đức của học sinh. Những chương trình học này khiến học sinh mù mờ về quan niệm đạo đức, học sinh chỉ tin vào cảm giác của bản thân mà không hiểu được văn hóa của mình. [32]
Thomas Sowell đã phát hiện rằng những chương trình học này sử dụng rất nhiều thủ đoạn của các quốc gia cực quyền nhằm tẩy não người dân. Những thủ đoạn này bao gồm: (1) Kích thích mạnh mẽ và gây sức ép lên tinh thần để làm mất đi sự mẫn cảm, phá bỏ sự đề kháng về tình cảm và lý trí; (2) Cô lập đối tượng; (3) thao túng áp lực của các học sinh cùng khóa để kiểm nghiệm giá trị quan có từ trước (được kế thừa trong gia đình hoặc giáo hội) của học sinh; (4) tước đoạt năng lực phòng vệ bình thường của cá nhân, như thận trọng, tự tôn, cảm giác riêng tư hoặc quyền từ chối tham gia; (5) Khuyến khích tiếp nhận đối với thái độ, giá trị quan và tín ngưỡng mới, sự khuyến khích này có thể biểu hiện là không phải chịu những áp lực mà người khác phải chịu, cũng có thể lựa chọn các phương thức hữu hình hoặc vô hình khác. [33]
Thomas Sowell chỉ ra điểm chung của các chương trình học này là xúi giục học sinh vứt bỏ các giá trị quan truyền thống của gia đình và xã hội. Nó sử dụng phương thức trung lập hay gọi là “không phán đoán thêm”, không cần phân biệt “đúng” hay “sai”, mà muốn tìm hiểu cảm giác nào là tốt đối với cá nhân; nó tập trung vào cảm giác của cá nhân chứ không tập trung vào lý trí hay quy phạm xã hội. [34]
(3) Biến học sinh trở thành thờ ơ, bất nhân – Giáo dục tử vong và giáo dục phòng chống ma túy
Tháng 9 năm 1990, đài truyền hình ABC của Mỹ đã phát sóng một chương trình khiến người xem cảm thấy vô cùng bất an. Một trường học đã tổ chức cho học sinh đến nhà xác tham quan những thi thể người chết, hơn nữa còn cho phép học sinh chạm vào thi thể. Đây là một phần trong trào lưu mới giáo dục tử vong. [35] Ngoài ra, giáo dục phòng chống ma túy cũng trở nên khá phổ biến.
Phương pháp giáo dục tử vong thông thường còn bao gồm: cho phép học sinh viết bia đá của mình, thiết kế bia mộ, lựa chọn quan tài, chuẩn bị tang lễ, viết phó cáo cho mình v.v. Bảng câu hỏi điều tra mà chương trình giáo dục tử vong đưa ra bao gồm những vấn đề như: “Bạn muốn chết như thế nào?” “Bạn sẽ chết khi nào?” “Bạn có quen biết người nào chết do nguyên nhân bạo lực không?” “Lần gần đây nhất bạn truy điệu cho người khác là khi nào? Bạn đã khóc hay thương tiếc trong im lặng? Bạn truy điệu một mình hay là cùng với người khác” “Bạn có tin rằng có kiếp sau không?” [36] Rõ ràng những vấn đề này không liên quan đến học tập, nó tập trung tìm hiểu thái độ nhân sinh, tín ngưỡng tôn giáo, đặc điểm tính cách … của học sinh, bản thân một số vấn đề còn có tính dẫn dắt, gây ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng tới những thiếu niên mới chỉ mười mấy tuổi.
Có người nói giáo dục tử vong có thể giúp học sinh có thái độ đúng đắn đối với vấn đề tử vong, thế nhưng toàn quốc đã xuất hiện rất nhiều vụ học sinh và nhi đồng tự sát đã từng tham gia “khóa học giáo dục tử vong”. Mặc dù không có bằng chứng chứng minh việc tự sát có liên quan trực tiếp tới giáo dục tử vong, nhưng các phụ huynh có lý do để hoài nghi, việc giảng dạy cho những học sinh trung học và tiểu học có tâm lý chưa vững vàng này quá nhiều vấn đề có liên quan đến tự sát và tử vong sẽ khiến những học sinh có tâm lý yếu nảy sinh cảm giác tuyệt vọng và trạng thái tâm lý u uất, cuối cùng dẫn đến việc các em tự sát.
Năm 1976, tiến sĩ Richard Blum đã tiến hành một nghiên cứu kéo dài trong 4 năm, phát hiện rằng những sinh viên từng tham gia các khóa học dự phòng ma túy mang tên là “quyết định (decide)” có sức kháng cự với ma túy không hề tốt hơn so với những sinh viên chưa từng tham gia khóa học này. [37] Từ năm 1978 đến năm 1985, giáo sư Stephen Jurs đã tiến hành một nghiên cứu so sánh tình hình hút thuốc lá và lạm dụng thuốc của các học sinh đã từng tham gia khóa học “tìm hiểu (quest)” với những học sinh không học khóa học này. Ông phát hiện rằng tình hình hút thuốc lá và lạm dụng thuốc trong nhóm từng tham gia khóa học không hề cải thiện thậm chí còn cao hơn. [38]
Giáo dục tử vong và giáo dục phòng chống ma túy đều không đạt được mục tiêu mà các nhà giáo dục kỳ vọng, vậy thì mục đích thực sự của nó là gì? Mục đích thật sự của những khóa học này cũng là khiến cho trẻ em trở nên hư hỏng. Thiếu niên nhi đồng có tính tò mò mạnh mẽ, nhưng lại chưa có nền tảng đạo đức vững chắc, nội dung của khóa học mới sẽ dẫn dắt trẻ nhỏ truy cầu kích thích, cuối cùng đi đến trượt dốc, đồng thời cũng khiến học sinh trở nên thờ ơ, bất nhân. Học sinh không còn coi các tệ nạn xã hội như bạo lực, tình dục, tấn công khủng bố, suy đồi đạo đức v.v. là bất thường, dễ dàng dung nhẫn cho cái ác một cách vô hạn, từ đó mà trượt dốc, động cơ của nó không khác nào việc ma quỷ dùng nghệ thuật để thể hiện bạo lực, tình dục, và sự bại hoại.
2.4.4 Giáo dục giới tính tục tĩu
Trong truyền thống phương Đông và phương Tây, “tình dục” là chủ đề cấm ở những nơi đông người. Quy phạm đạo đức mà Thần định ra cho con người yêu cầu hành vi tình dục chỉ có thể diễn ra trong hôn nhân, mọi hành vi tình dục theo hình thức khác bị xem là tà dâm và đi ngược lại giới mệnh của Thần. Điều này đã xác định “tình dục” không thể tách rời hôn nhân, không thể là một chủ đề công khai trong xã hội bình thường. Trong xã hội truyền thống, thanh thiếu niên chưa đến tuổi kết hôn chỉ được giáo dục sinh lý tuổi dậy thì, chứ không hề cần cái gọi là “giáo dục giới tính” như ngày nay.
“Giáo dục giới tính” hiện đại được Georg Lukács, người sáng lập phái Frankfurt lần đầu tiên thực hiện trên quy mô lớn, mục đích là làm đảo lộn giá trị quan truyền thống của phương Tây. Năm 1919, Lukács đảm nhiệm chức bộ trưởng bộ văn hóa của chính phủ cộng hòa Xô Viết Hungary, chính phủ này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Ông đã triển khai một kế hoạch giáo dục giới tính cấp tiến trong các trường học, dùng một phương thức trắng trợn để chỉ đạo thanh thiếu niên “tự do tình dục” (dâm loạn). [39]
Phong trào “giải phóng tình dục” do ma quỷ dấy khởi những năm 1960 đã lật đổ quan niệm đạo đức tình dục truyền thống của phương Tây, trong một thời gian ngắn tỷ lệ mắc bệnh lây lan qua đường tình dục và có thai vị thành niên đã tăng cao. Trong bối cảnh đó, những nhà “hảo tâm” mong muốn giải quyết vấn đề xã hội đã đề xuất ra “giáo dục giới tính”. Nhưng trong hệ thống giáo dục bài xích Thần, những biện pháp này chỉ chú trọng đến “an toàn tình dục” (phòng bệnh và phòng ngừa mang thai). Hơn nữa giáo dục “tình dục” ngoài hôn nhân này ngay từ đầu đã xa rời đạo đức tình dục, điều này cũng khiến nó rất dễ dàng rơi vào quỹ đạo “giáo dục giới tính” theo mô thức kỳ quái của Lukács, trở thành công cụ mà tà linh lợi dụng để làm hư hỏng thanh thiếu niên: dùng danh nghĩa “kiến thức thông thường” và “khoa học” để nhồi nhét vào đầu các học sinh trẻ tuổi những quan niệm như quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, đồng tính luyến ái…, khiến thế hệ sau trở nên “tự do” phóng túng mà hoàn toàn quay lưng lại với Thần. Những chương trình “giáo dục giới tính” với nội dung phong phú bắt đầu giáo dục từ tiểu học này đã xuyên tạc một cách có hệ thống các giá trị quan về tình dục mà Thần lưu lại cho con người, bao gồm gia đình, trách nhiệm, tình yêu, trinh tiết, cảm giác hổ thẹn, sự kiềm chế bản thân, sự trung thành v.v.
Trong hoạt động cụ thể, quan niệm giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ của Dewey “trong thực tiễn học tập” vừa hay lại trở thành công cụ đắc lực của ma quỷ. “Tập trung vào trẻ em (focus on kids)”, một khóa học “giáo dục giới tính” được khuyến khích bởi trung tâm dự phòng và kiểm soát bệnh tật, đã đề nghị giáo viên tổ chức “trò chơi bao cao su” giữa các đội học sinh: mỗi người trong đội phải lắp bao cao su vào đồ chơi người lớn và phải tháo nó ra, thi xem đội nào hoàn thành nhanh nhất. [40]
Theo chương trình “Bạn nên tự hào! Có trách nhiệm!”, một trung tâm kiểm soát dịch bệnh khác đã sử dụng một giáo trình được rất nhiều tổ chức giáo dục giới tính như “Liên minh kế hoạch hóa gia đình” quảng bá trên quy mô lớn, học sinh phải nhập vai thành 2 nữ sinh và cùng bắt đầu thảo luận về “hành vi tình dục an toàn hơn”. “Học tập lấy học sinh làm chủ đạo”, một quan niệm khác của giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ cũng bị lợi dụng, trong giáo trình, giáo viên được khuyến khích cho trẻ em “thảo luận về phương thức tiếp cận thân mật (với bạn tình).” [41] Đối với những vấn đề thảo luận này, trong giáo trình còn đề cập đến các phương thức tiếp xúc nhục thân và kích thích dục vọng. Đối với đại đa số những người còn giữ được một chút luân lý truyền thống mà nói, rất khó phân biệt được những khóa học này rốt cuộc là giáo dục hay là khiêu dâm trẻ em.
Tổ chức “Liên minh kế hoạch hóa gia đình” là nhà quảng bá chính của giáo trình nêu trên cũng là nhà cung cấp tài liệu học tập và giáo trình giáo dục giới tính lớn nhất nước Mỹ, có chi nhánh tại 12 quốc gia trên toàn thế giới. Tổ chức này cũng cổ súy cho “quyền phá thai”. Tiền thân của nó là Liên minh kiểm soát sinh đẻ Mỹ (American Birth Control League). Người sáng lập của nó, Margaret Sanger, là một người theo chủ nghĩa xã hội cấp tiến, sùng bái Liên Xô dưới sự thống trị của Stalin và một ngày nào đó được đi “bái kiến”. Bà này là người ủng hộ mạnh mẽ phong trào “tự do tình dục” (dâm loạn), sau lần ngoại tình đầu tiên, bà ta thốt lên rằng mình “đã thực sự cảm nhận được sự tự do”; bà ta chủ trương ủng hộ phụ nữ có “quyền trở thành những người mẹ mà không kết hôn”, thậm chí còn viết thư khuyến khích cháu ngoại 16 tuổi của mình dâm loạn, còn nói làm tình “3 lần mỗi ngày là phù hợp”. Mục đích sáng lập tổ chức lập pháp về tránh thai của bà ta chính là xuất phát từ nhu cầu lối sống dâm loạn của mình. Trong giáo trình giáo dục giới tính hiện đại do tổ chức này đưa ra, chúng ta không khó nhận ra dấu ấn của quan niệm “tự do tình dục” do tà linh cộng sản chủ đạo.
“Điều này hoàn toàn bình thường!” là một cuốn sách đã bán được hàng triệu cuốn và được dịch sang 30 thứ tiếng, là tài liệu giáo dục giới tính được sử dụng phổ biến trên toàn thế giới. Cuốn sách có hàng trăm hình ảnh vẽ cảnh khỏa thân đầy màu sắc và miêu tả sinh động những động tác cũng như cảm thụ tâm sinh lý của những hành vi bình thường và bất bình thường trong quan hệ lưỡng tính và đồng tính, cho đến cả các biện pháp tránh thai và phá thai. Tác giả tuyên bố “trẻ em có quyền được biết” tất cả những thông tin này. [42] Chủ đề của cuốn sách này là các loại hành vi tình dục đều là lựa chọn “hoàn toàn bình thường”, không đưa ra bất cứ phán xét đạo đức nào.
Trong một tài liệu giáo dục giới tính được sử dụng rộng rãi ở cấp trung học cơ sở, tác giả nói với trẻ em rằng, có một số tôn giáo cho rằng tình dục ngoài hôn nhân là có tội, “Bạn phải tự quyết định xem những thông tin này quan trọng với bạn đến mức nào”. [43] Nói tóm lại, tất cả giá trị đều là tương đối, phải trái, đúng sai là do bạn quyết định!
Về cơ bản, các trường công lập Mỹ ngày nay có 2 loại giáo trình giáo dục giới tính phổ biến, một là giáo trình “giáo dục giới tính toàn diện” được biên soạn bởi các tổ chức giáo dục giới tính chủ yếu đã nêu ở phần trên, bao gồm giáo dục các hành vi tình dục, tránh thai và phòng tránh bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, hai là giáo dục tiết chế dục vọng (tránh không nói về các chủ đề tránh thai), khuyến khích học sinh tiết chế dục vọng, kìm hãm các hành vi tình dục đến khi kết hôn.
Không thể phủ nhận rằng, đạo đức xã hội, đặc biệt là quan niệm tình dục phổ quát đã biến dị, tín ngưỡng đối với Thần đã bị suy thoái, những thông tin khiêu dâm tràn lan trên truyền thông và internet, tất cả đã đẩy trẻ em rơi xuống vực thẳm.
Khi tư tưởng bài xích Thần đã trở thành chủ đạo trong giới giáo dục ngày nay, đa số các trường học công lập theo đuổi tư tưởng giáo dục “giá trị trung lập” đều không muốn hoặc không dám giáo dục trẻ nhỏ rằng hành vi tình dục ngoài hôn nhân là đáng xấu hổ và vô đạo đức, không dám dùng giới mệnh của Thần làm căn bản để giáo dục phải trái, đúng sai cho trẻ nhỏ. Cho dù là giáo dục tiết chế dục vọng cũng chỉ có thể khuyên nhủ từ góc độ ngoài đạo đức như gây nguy hại cho thể chất và tinh thần của trẻ vị thành niên do tâm sinh lý và trí tuệ chưa phát triển đầy đủ, bệnh lây lan qua đường tình dục và có thai ở độ tuổi vị thành niên, cho đến tầm quan trọng của việc giữ gìn trinh tiết cho quan hệ hôn nhân sau này v.v., và đương nhiên hiệu quả cũng sẽ suy giảm.
Giáo dục giới tính ở phương Tây ngày nay vẫn là một đề tài nóng. Các cuộc thảo luận của các giới trong xã hội đều xoay quanh chủ đề “an toàn”, tập trung vào việc giảm 2 chỉ tiêu lớn là tỷ lệ mang thai vị thành niên và tỷ lệ mắc bệnh lây lan qua đường tình dục. Thế nhưng bản thân việc các trường học công khai giảng dạy cho trẻ nhỏ “kiến thức về tình dục” tất nhiên sẽ dẫn đến “tình dục” ngoài hôn nhân, đi ngược lại với đạo đức tình dục truyền thống. Nhưng cho dù 2 chỉ tiêu lớn này có giảm xuống bằng 0 đi nữa thì có thực sự “an toàn” không? Quan niệm tình dục ở châu Âu còn “cởi mở” hơn so với Mỹ, thực sự là nhờ “hiệu quả”của giáo dục giới tính, tỷ lệ mang thai vị thành niên ở châu Âu đã giảm xuống thấp hơn Mỹ. Kết quả này khiến có người vui mừng, nhưng cũng có người lo lắng. Cho dù kết cục thế nào, ma quỷ đều đạt được mục đích của nó là phá hoại đạo đức nhân loại.
2.4.5 Mượn danh “tự tôn” để phóng đại chủ nghĩa coi bản thân là trung tâm
Từ những năm 1960 đến nay, một giáo điều mới phát triển mạnh trong giới giáo dục Mỹ đã góp phần quan trọng vào sự trượt dốc lớn của giáo dục. Đây chính là cái gọi là “tự tôn (self-esteem)”.
Ý nghĩa bề ngoài của “tự tôn” là cảm giác tự tin và tôn nghiêm của bản thân mình khi có được năng lực hoặc thành tựu xuất chúng. Nhưng tự tôn được khởi xướng trong các trường học Mỹ có vẻ hoàn toàn là một câu chuyện khác. Tiến sĩ Maureen Stout trong cuốn sách “Thiết kế khóa học bản thân cảm thấy tốt đẹp: Dùng danh nghĩa tự tôn để hạ thấp mức độ khó” đã miêu tả hiện tượng rất phổ biến ở các trường học hiện nay, đó là các học sinh chỉ quan tâm đến điểm số của mình mà không quan tâm mình rốt cuộc đã học được gì và đã bỏ ra bao nhiêu công sức để học. Vì thế, hùa theo yêu cầu điểm số của học sinh, các giáo viên đành phải hạ thấp mức độ khó trong yêu cầu giảng dạy và kiểm tra, nhưng việc này sẽ chỉ khiến cho những học sinh vốn không nỗ lực học tập lại càng thêm lười nhác. Các đồng sự của tác giả đã quen với hiện tượng này, thậm chí cho rằng trường học cũng giống như tử cung vậy, là một nơi cô lập với thế giới bên ngoài, để học sinh có được tâm lý thoải mái, chứ không phải sự phát triển trí lực. Tất cả mọi sự tập trung đều hướng đến “cảm giác tự ngã” của học sinh và chỉ quan tâm đến cảm xúc của học sinh. [44]
Như rất nhiều nhà lý luận đã chỉ ra, giáo điều “tự tôn” đã đánh tráo nguyên nhân và kết quả: tự tôn là kết quả của nỗ lực, chứ không phải là điều kiện tiền đề để đạt được thành công; nói cách khác, không phải vì có cảm giác tốt đẹp mới có thành công, mà vì có thành công mới có cảm giác tốt đẹp.
Loại quan niệm “tự tôn” sai lầm này là sản phẩm phụ của việc giáo dục theo phương thức trị liệu tâm lý vào những năm 1960, kết quả là đã bồi dưỡng ra một lô những thanh niên có “ý thức về quyền lợi” và “ý thức người bị hại”. Tiến sĩ Maureen Stout đã dùng ngôn ngữ thông tục để mô tả loại tâm thái thường thấy này: “Tôi muốn làm gì thì làm nấy, muốn làm thế nào thì làm thế ấy, muốn làm lúc nào thì làm lúc đó, không ai hoặc điều gì có thể ngăn cản tôi.” [45]
Giáo dục Mỹ dùng danh nghĩa “tự tôn” với bề ngoài đầy sự quan tâm và ấm áp để phóng đại quan niệm tự do và chủ nghĩa coi mình là trung tâm, bồi dưỡng ra một thế hệ người trẻ tuổi không quan tâm đến đạo đức và trách nhiệm, chỉ quan tâm đến cảm giác của bản thân mà không nghĩ đến cảm nhận của người khác, chỉ thích hưởng thụ mà không muốn bỏ công sức, điều này khiến cho đạo đức xã hội bị phá hoại nghiêm trọng.
2.5 Các thủ đoạn phức tạp và quanh co của ma quỷ để thâm nhập giáo dục
2.5.1 Quyền khống chế giáo dục trung học và tiểu học ở Mỹ không ngừng thay đổi
Trong thời gian rất dài sau khi nước Mỹ thành lập, chính phủ liên bang không hề kiểm soát giáo dục, giáo dục là việc của giáo hội và các bang. Cùng với việc chính phủ liên bang thành lập bộ giáo dục vào năm 1979, quyền lực của Bộ Giáo dục ngày càng mở rộng. Đến ngày nay, quyền lực của Bộ Giáo dục trong việc thao túng chính sách giáo dục, phân bổ kinh phí giáo dục … đã vượt xa so với trước. Các phụ huynh, nhà trường, chính phủ tiểu bang đã từng có tiếng nói rất lớn đối với giáo dục, hiện nay đành phải ngày càng nghe theo lời của các quan chức chính phủ liên bang. Nói cách khác, phụ huynh và nhà trường đã dần dần mất đi quyền quyết định dạy cái gì và dạy như thế nào.
Cần phải chỉ ra rằng quyền lực là trung tính , người có quyền lực có thể sử dụng quyền lực làm việc xấu, cũng có thể sử dụng quyền lực làm việc tốt. Tập trung quyền lực đơn thuần không nhất định là việc xấu, còn cần xét xem con người và cơ quan có quyền lực ấy sử dụng quyền lực như thế nào hoặc sử dụng quyền lực để đạt được mục tiêu gì. Sở dĩ việc tập trung quyền lực giáo dục ở Mỹ có vấn đề là vì tà linh cộng sản cũng dùng trăm phương nghìn kế để thâm nhập vào các cấp chính phủ, đặc biệt là các cấp cao trong chính phủ. Trong tình huống này, một khi đưa ra quyết định sai lầm thì sẽ gây ảnh hưởng trên diện rộng, mà số ít những người tỉnh táo sẽ rất khó chống cự lại.
Một hậu quả mà tập trung hóa quyền giáo dục gây ra là các quan chức quản lý giáo dục trong một thời gian ngắn sẽ không thể thấy được quá trình phát triển của chính sách giáo dục và phạm vi ảnh hưởng của nó. Phạm vi nghiệp vụ của rất nhiều người còn hết sức hạn chế, cho dù một số sự việc khiến họ nghi ngờ, nhưng đa phần họ đều không có đủ thời gian, sức lực, tài nguyên và dũng khí để tìm ra căn nguyên. Cho dù một số người thể hiện sự nghi ngờ, chất vấn đối với chính sách, nhưng trong tay họ lại không có đủ những mảnh ghép của một bức tranh tổng thể, khi họ đối diện với cấp trên thì ngoài vâng dạ nghe lệnh ra, khó có thể tự quyết chuyện gì. [46] Mỗi cá nhân đều trở thành một bộ phận của một cỗ máy lớn, không dễ để họ nhận ra quyết sách hoặc hành vi của mình sẽ gây cho học sinh hoặc xã hội hậu quả gì, họ dần dần coi nhẹ trách nhiệm về mặt đạo đức [của xã hội] mà mình phải gánh vác, đó chính là lúc tà linh tận dụng sơ hở mà mặc sức phá hoại.
Bên cạnh đó, các học viện giáo viên, nhà xuất bản, cơ quan chứng nhận giáo dục, cơ quan chứng nhận giáo viên cũng có tầm ảnh hưởng quan trọng đối với giáo dục, do vậy cũng trở thành mục tiêu xâm nhập của ma quỷ.
2.5.2 Công đoàn giáo viên khuyến khích phát triển sự tầm thường và cản trở cải cách
Chương 9 của cuốn sách này đã thảo luận về việc tà linh cộng sản lợi dụng và thao túng đối với công đoàn. Công đoàn giáo viên Mỹ cũng trở thành một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự thất bại của giáo dục. Điều công đoàn giáo viên hướng tới không phải là làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học, không kết hợp thành tích của học sinh với thành tích dạy học của giáo viên, mà đã trở thành tổ chức nghề nghiệp khuyến khích những giáo viên thất bại và bảo vệ cho những giáo viên không đủ tiêu chuẩn, khiến cho rất nhiều giáo viên muốn cống hiến cho sự nghiệp giáo dục và thực sự tâm huyết với học sinh trở thành vật hy sinh.
Năm 1993, Tracey Bailey một giáo viên môn khoa học của một trường trung học cơ sở ở Florida đã nhận được phần thưởng giáo viên của năm do tổng thống trao tặng. Chủ tịch Hội Liên hiệp Giáo viên Mỹ nói rằng ông ta rất vui mừng vì thành viên công đoàn của ông ta nhận được vinh dự này. Tuy nhiên sự thật là Bailey đã ra khỏi công đoàn. Cô ấy tin rằng công đoàn giáo viên quy mô lớn chính là nguyên nhân mấu chốt gây ra sự thất bại của giáo dục Mỹ, vấn đề chính là bản thân công đoàn chứ không phải là phương án giải quyết. Cô nói, công đoàn chỉ là tập đoàn lợi ích đặc biệt và bảo vệ hiện trạng cho chính nó, là trụ cột của một hệ thống chỉ khuyến khích những kẻ xoàng xĩnh, tầm thường và bất tài. [47]
Các công đoàn giáo viên chính ở Mỹ có nguồn tiền dồi dào, có sức ảnh hưởng lớn, có địa vị quan trọng nhất trong các nhóm du thuyết chính trị. Công đoàn giáo viên trở thành trở ngại chủ yếu cho việc cải cách trong nội bộ hệ thống giáo dục. Lấy ví dụ công đoàn giáo viên California thuộc Hiệp hội Giáo dục Mỹ (CTA), họ có số tiền rất lớn, họ có thể dùng những thủ đoạn như quyên góp chính trị và pháp luật nhằm để thực hiện chủ trương của mình. Năm 1991, bang California muốn tham gia dự luật số 174 trong hiến pháp liên bang, cho phép các gia đình sử dụng phiếu chứng nhận tài trợ của chính phủ để tự do lựa chọn bất cứ trường học nào. Tuy nhiên CTA ra sức cản trở dự luật này. Một chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh hamburger đã quyên góp 25.000 USD cho dự luật số 174, CTA đã cưỡng ép trường học hủy hợp đồng kinh doanh với chuỗi cửa hàng này. [48]
2.5.3 Xóa bỏ ảnh hưởng của gia đình trong quá trình giáo dục
Một quan điểm giáo dục rất quan trọng của chủ nghĩa cộng sản là tách trẻ em ra khỏi cha mẹ ngay từ khi mới sinh ra, để cho công xã hoặc nhà nước thống nhất nuôi dưỡng. Thực hiện được điều này không hề dễ dàng, nhưng ma quỷ đã dùng rất nhiều biện pháp linh hoạt, âm thầm nỗ lực thực hiện theo hướng này.
Ở các quốc gia cộng sản, tà linh khuyến khích học sinh đoạn tuyệt quan hệ với cha mẹ thuộc giai cấp tư sản, hoặc là sử dụng giáo dục định hướng thi cử để kéo dài thời gian ở trường học của trẻ em, giảm ảnh hưởng của cha mẹ với trẻ em. Nhưng các quốc gia phương Tây lại sử dụng phương thức khác nhau để loại bỏ ảnh hưởng của gia đình, ví dụ như ra sức kéo dài thời gian ở trường của học sinh, hạ thấp tuổi nhập học của học sinh, không cho học sinh mang bài tập và tài liệu học tập về nhà, không khuyến khích học sinh hỏi ý kiến cha mẹ về các nội dung có tính tranh luận.
Những khóa học “Làm rõ giá trị quan” đã cách ly quan hệ giữa học sinh và gia đình. Ví dụ như một phụ huynh học sinh tham gia khóa học “Tìm hiểu (quest)” phản ánh lại như sau: “Có vẻ như phụ huynh vĩnh viễn được khắc họa bằng những hình ảnh tiêu cực. Câu chuyện có lẽ liên quan đến một người cha và con trai của mình, người cha luôn ngang ngược, quá nghiêm khắc, chung quy là không công bằng”. Ngụ ý của những khóa học này thường là: “Cha mẹ bạn không hiểu được bạn, chúng tôi mới là người thực sự hiểu bạn”. [49]
Có lúc do pháp luật quy định, học sinh tham gia hoạt động nào đó trước tiên phải được phụ huynh đồng ý, lúc đó trường học thường dùng những ngôn ngữ nước đôi, mơ hồ và đánh lạc hướng khiến phụ huynh không hiểu được chi tiết. Nếu phụ huynh trách cứ, ban giám hiệu nhà trường hoặc khu học xá sẽ có một loạt các biện pháp kéo dài, đùn đẩy, giải thích qua loa, ví dụ như nói phụ huynh không có kiến thức chuyên môn về giáo dục, các khu học xá khác đều làm như thế, cả khu học xá chỉ có mỗi gia đình anh/chị là trách cứ v.v. Thông thường các phụ huynh đều không có thời gian và nguồn lực để đi đôi co với nhà trường hoặc khu học xá, hơn nữa trường học chỉ như một doanh trại quân đội kiên cố còn quân lính thì cựu binh nghỉ, tân binh đến lưu động như nước chảy, học sinh sau mấy năm trưởng thành cũng sẽ rời khỏi trường học, phụ huynh thông thường sẽ tìm cách dàn xếp ổn thỏa, nhẫn nhịn cho qua. Huống nữa trẻ em là con tin của trường học nên phụ huynh không dám phản ứng quá gay gắt làm mất lòng ban giám hiệu nhà trường, họ đành phải nén giận, dần dà rồi cũng cho qua. Khi phụ huynh phản đối cách làm của nhà trường, trường học hoặc khu học xá sẽ dán nhãn cho phụ huynh là “phần tử cực đoan”, “kẻ làm loạn”, “kẻ mắc chứng cuồng tôn giáo”, “phần tử điên cuồng”, “phần tử phát-xít” v.v. Nhà trường làm như vậy để răn đe những phụ huynh khác, khiến họ không dám lên tiếng phản đối. [50]
2.5.4 Dùng thuật ngữ phức tạp để gây nhầm lẫn cho phụ huynh và công chúng
Phần đầu cuốn sách “Cố ý làm suy yếu trí tuệ của nước Mỹ” của Charlotte Thomson Iserbyt nêu ở trên đã chỉ ra rằng cuộc chiến tranh nhắm vào thế hệ trẻ Mỹ gồm ba sách lược chủ yếu: phép biện chứng của Hegel (lùi một bước để tiến hai bước, khi cần thì thỏa hiệp, dùng các phương thức gián tiếp để đạt được mục tiêu—ghi chú của người giới thiệu); chủ nghĩa tiệm tiến; ngữ nghĩa lừa gạt, tức là định nghĩa lại từ ngữ để lừa gạt đối phương, khiến đối phương hồ đồ chấp nhận những điều kiện bất lợi cho mình.
Schlafly cũng đã phát hiện ra hiện tượng này. Trong cuốn sách “Ngược đãi trẻ em trong phòng học”, ở phần lời tựa cô nói rằng khóa học theo mô thức trị liệu tâm lý đã sử dụng một loại thuật ngữ đặc biệt để ngăn cản phụ huynh lý giải được phương pháp và mục đích thật sự của khóa học. Bao gồm các thuật ngữ như: điều chỉnh hành vi (behavior modification), phương thức tư duy phê phán cao cấp, suy lý đạo đức (moral reasoning) v.v.[51] Mấy chục năm nay, những người làm công tác giáo dục ở Mỹ đã chế ra rất nhiều thuật ngữ khiến người ta hoa mắt, kiểu như “chủ nghĩa kiến tạo (constructivism)”, “học tập theo phương thức hợp tác (cooperative learning)”, “học tập theo phương thức trải nghiệm (experiential learning)”, “hiểu sâu (deep understanding)”, “giải quyết vấn đề (problem-solving)”, “phương thức tìm hiểu (inquiry-based), “giáo dục lấy thành tích làm cơ sở (outcome-based education)”, “học tập theo phương thức cá nhân hóa (personalized learning)”, “hiểu theo phương thức khái niệm (conceptual understanding)”, “kỹ năng trình tự (procedural skills)”, “học tập suốt đời (life-long learning)”, “dạy học theo phương pháp tương tác giữa giáo viên và học sinh (student-teacher interactive instruction) v.v, và còn nhiều nữa. Xem xét từng vấn đề, có một số khái niệm không phải không có đạo lý , nhưng khi kết hợp ngữ cảnh mà khảo sát thực tế về hậu quả của việc sử dụng những thuật ngữ này thì sẽ phát hiện ra mục đích thực sự đằng sau những thuật ngữ này là bôi nhọ giáo dục truyền thống, đẩy mạnh sự giảm thiểu hoá trí năng trong giáo dục. Do đó, về bản chất, chúng đều thuộc về cái gọi là “ngôn ngữ Aesop” và “ngôn ngữ Orwell”, ngôn ngữ bề mặt và ý nghĩa khác xa nhau. Bí quyết để giải mã loại ngôn ngữ này là “nghĩ ngược lại với nó”: “hiểu sâu” chính là che đậy việc ngay cả nghĩa bề mặt cũng không hiểu lắm; “học tập suốt đời” chính là để che đậy việc học tập hiện tại không thành công lắm. Những từ ngữ khác cũng đều như vậy.
2.5.5 Sắp xếp lại các môn học trên quy mô lớn và liên tục đổi mới sách giáo khoa
Cuốn sách “Không ai dám gọi đó là phản quốc” xuất bản những năm 1960 đã phân tích một lần cải cách sách giáo khoa những năm 1930. Lần cải cách đó đã gộp những môn học có nội dung khác nhau như lịch sử, địa lý, xã hội học, kinh tế học, chính trị học v.v. tổng hợp thành một bộ sách giáo khoa. Bộ sách này vứt bỏ nội dung, quan niệm và phương thức biên soạn sách giáo khoa truyền thống, hạ thấp giá trị của các anh hùng nước Mỹ, hiến pháp Mỹ, chống lại tôn giáo và cổ súy việc kiểm soát về cuộc sống cá nhân theo mô thức chủ nghĩa xã hội. [53]
Bộ sách giáo khoa này quá đồ sộ, hơn nữa nó không thuộc phạm vi của bất kỳ môn học truyền thống nào nên không được các chuyên gia giáo dục chú ý. Rất nhiều năm sau đó, khi công chúng nhận thức được vấn đề và bắt đầu phản đối bộ sách giáo khoa này thì đã có 5 triệu học sinh học nó. Hiện tại trong các trường trung học và tiểu học ở Mỹ, các môn lịch sử, địa lý, giáo dục công dân … đã trở thành một môn “nghiên cứu xã hội”, nhưng ý tưởng đằng sau nó thì giống nhau.
Nếu cứ phân giới hạn các môn học như trước đây, thì bất cứ nội dung sửa đổi sách giáo khoa nào cũng dễ bị nhận ra, và tất nhiên nó sẽ vấp phải sự chất vấn và ngăn chặn của các chuyên gia và các bậc phụ huynh. Trộn lẫn một số môn học truyền thống với nhau, từ đó biên soạn ra một tài liệu giáo khoa mới mà không thuộc bất kỳ môn học truyền thống nào, làm như vậy các chuyên gia khó có thể vượt khỏi nội dung chuyên môn của mình để đánh giá, khiến cho rất nhiều sách giáo khoa sau khi được xét duyệt đã được xã hội và các trường học tiếp nhận tương đối dễ dàng. Mười mấy năm, 20 năm sau, có thể sẽ có người phát hiện ra âm mưu đằng sau bộ sách giáo khoa này, khi họ bắt đầu phát ngôn về vấn đề này thì những học sinh đã trưởng thành, các giáo viên đã quen với tài liệu và phương pháp dạy mới này, muốn quay trở lại như trước cũng không thể được. Cho dù có một số ít người nhận thức được khiếm khuyết nghiêm trọng của bộ sách giáo khoa này thì tiếng nói của họ cũng rất khó gây được sự chú ý của quần chúng xã hội, chưa nói đến việc tác động đến quá trình ra quyết sách của giáo dục. Nếu tiếng nói phản đối rất lớn, thì họ sẽ nhân cơ hội này phát động một cuộc cải cách nữa, làm loãng những nội dung truyền thống thêm một bước nữa, nhồi vào quan niệm của phái cánh tả, qua vài lần cải cách, một thế hệ học sinh mới đã cách rất xa truyền thống, không thể quay trở về con đường cũ nữa.
Tốc độ đổi mới sách giáo khoa ở Mỹ rất nhanh. Có người nói là do tốc độ phát triển của tri thức tăng nhanh, nhưng sự thực là kiến thức căn bản ở cấp trung học và tiểu học không có nhiều thay đổi lớn. Vậy tại sao vẫn cần biên soạn nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau đến vậy, trong khi sách giáo khoa cũ vẫn không ngừng được tái bản? Nguyên nhân bề mặt là các nhà xuất bản cạnh tranh với nhau vì lợi nhuận, các nhà xuất bản sẽ không kiếm được tiền nếu cho phép học sinh sử dụng lại một bộ sách giáo khoa giống nhau trong nhiều năm, nhưng thực tế thì nguyên nhân cũng tương tự như nguyên nhân của việc sắp xếp lại các môn học mới, tất cả đều có chung một mục đích là tạo điều kiện thuận lợi cho ma quỷ làm biến dị tài liệu giáo dục.
2.5.6 Không ngừng tiến hành cải cách giáo dục là phép biện chứng đấu tranh lùi một bước để tiến hai bước
Từ những năm 1950 và 1960 đến nay, giáo dục Mỹ giống như chiếc đèn kéo quân, đưa ra một loại các cải cách. Nhưng những cải cách này không giúp cho giáo dục được nâng cao chất lượng như kỳ vọng. Thành tính trong kỳ thi SAT của các học sinh tại Mỹ vào năm 1981 đã đạt số điểm thấp nhất trong lịch sử, tình hình này được báo cáo lại trong cuốn “dân tộc đang gặp nguy cơ”, cũng dẫn đến phong trào “quay trở về với cơ bản” (back to basics) trong giáo dục. Để cải biến tình hình khó khăn của giáo dục Mỹ, sau những năm 1990, chính phủ đã vài lần liên tiếp tiến hành cải cách giáo dục trên quy mô lớn, nhưng hiệu quả mang lại rất ít, thậm chí giống như trèo cây tìm cá, ôm rơm chữa cháy , không những không thể cứu vãn mà còn mang đến nhiều vấn đề nan giải hơn. [54]
Chúng tôi tin rằng đa số những người tham gia cải cách giáo dục đều chân thành muốn làm điều tốt cho học sinh và xã hội, nhưng do chịu ảnh hưởng của các loại tư tưởng sai lầm nên thường không như mong muốn, rất nhiều cuộc cải cách như vậy xét từ kết quả thực chất thì lại là đẩy mạnh kế hoạch của ma quỷ. Giống như “cải cách”của ma quỷ trong các lĩnh vực khác, cải cách giáo dục do ma quỷ thâm nhập ấy không kỳ vọng “đánh một trận là thắng”. Thành công của cải cách đó cũng không phải là mục tiêu của nó, kỳ thực mỗi lần cải cách ngay từ khi bắt đầu thiết lập đã chắc chắn thất bại, đó lại là cái cớ để đề xuất một cuộc cải cách mới. Mỗi lần cải cách lại làm biến dị sâu thêm một tầng nữa, cho đến triệt để khiến con người rời xa truyền thống. Đó chính là “phép biện chứng đấu tranh lùi một bước để tiến hai bước” của ma quỷ. Đừng cho rằng đến lúc đó mọi người sẽ cảm thấy tiếc nuối vì truyền thống không còn. Không, khi bạn nhắc chủ đề này, mọi người sẽ ngây thơ hỏi rằng: “Truyền thống, từ này có nghĩa là gì?”
3.Ma quỷ bằng nhiều con đường khác nhau đi đến một mục đích là phá hoại giáo dục ở phương Đông và phương Tây
Ở phương Tây, mục tiêu phá hoại giáo dục của tà linh cộng sản là thông qua giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ, nó kiên nhẫn chờ đợi hơn 100 năm, trải qua vài thế hệ đã dần đạt được mục đích. Trung Quốc tuy rằng có bề dày văn hóa truyền thống nhưng tà linh đã lợi dụng điều kiện lịch sử đặc biệt để tạo cho con người lúc bấy giờ tâm lý gấp gáp muốn thành công ngay, dụ dỗ người Trung Quốc sử dụng các thủ đoạn cấp tiến, chỉ trong mấy chục năm đã khiến con người nhanh chóng cắt đứt với truyền thống, khiến con người vứt bỏ giá trị truyền thống, đạt được mục đích làm bại hoại giáo dục, làm bại hoại nhân loại.
Đầu thế kỷ 20, không lâu sau khi giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ của Dewey bắt đầu thâm nhập nước Mỹ, các học trò người Trung Quốc của ông ta cũng lần lượt học xong và trở về nước, họ trở thành người tiên phong của giáo dục cận đại Trung Quốc. Lúc bấy giờ, lợi dụng lòng tự tôn của người Trung Quốc sau khi bị chiến hạm phương Tây đánh bại và nguyện vọng tốt đẹp của những người trí thức muốn mau chóng đưa dân tộc trở nên hùng mạnh, ma quỷ đã dẫn dụ người Trung Quốc dấy khởi một cuộc vận động mạnh mẽ phủ nhận truyền thống gọi là “Cuộc Vận động Văn hóa mới”. Thực chất đây là một cuộc vận động phá hoại văn hóa, là sự chuẩn bị cho cuộc Đại Cách mạng Văn hóa những năm 1960. “Cuộc Vận động Văn hóa mới” có 3 nhân vật đại diện chủ yếu là Hồ Thích – học trò của Dewey, Trần Độc Tú – một trong những người sáng lập ĐCSTQ sau này và Lỗ Tấn – người sau này được Mao Trạch Đông ca ngợi là “Vị tướng của cách mạng văn hóa Trung Quốc”. Lý Đại Chiêu một trong những người sau này sáng lập ĐCSTQ cũng trở thành một nhân vật tay chân chủ chốt của cuộc vận động văn hóa này.
Cuộc vận động văn hóa mới nhắm vào những mặt trái trong quá trình phát triển của xã hội truyền thống Trung Quốc, nó đổ lỗi cho “tam cương ngũ thường, đạo đức chuẩn mực của Nho giáo” là nguyên nhân gây ra 100 năm suy yếu của xã hội Trung Quốc, hô hào khẩu hiệu “đả đảo Khổng gia điếm”, coi văn hóa truyền thống là “văn hóa cũ”, coi tất cả các thứ của văn hóa phương Tây là “văn hóa mới”, dùng khẩu hiệu “khoa học” và “dân chủ” để phê phán tín ngưỡng truyền thống. Cuộc vận động này đã mở đường cho cuộc vận động “Ngũ Tứ” kịch liệt hơn sau đó, dấy lên làn sóng đầu tiên lật đổ hoàn toàn giá trị và luân lý truyền thống, đồng thời cũng tạo điều kiện cho chủ nghĩa Marx của phương Tây xâm nhập vào Trung Quốc, đâm chồi nảy lộc và đặt cơ sở vững chắc ở đây. Trong giới giáo dục, một trong những tác hại lớn nhất mà cuộc vận động văn hóa mới gây ra là cuộc vận động “văn bạch thoại”. Theo đề xướng của Hồ Thích, giáo dục quốc văn tiểu học hoàn toàn đổi sang văn bạch thoại. Như vậy, sau một thế hệ, đa số người Trung Quốc hầu như không hiểu được văn cổ, các kinh điển truyền thống như “Chu Dịch”, “Xuân Thu”, “Đạo Đức Kinh”, “Hoàng Đế Nội Kinh” v.v. chỉ là nội dung nghiên cứu của các học giả chuyên nghiệp, không liên quan tới học sinh phổ thông, 5000 năm văn minh huy hoàng của Trung Quốc đã trở thành thứ đồ trang trí.
Trong quá trình phát triển văn hóa Trung Quốc, Thần đã an bài tách biệt ngôn ngữ văn viết và văn nói. Trong lịch sử, Trung Quốc đã trải qua nhiều lần đại dung hợp với các dân tộc, và nhiều lần dịch chuyển vị trí địa lý của các trung tâm văn hóa, từ đó khiến ngôn ngữ văn nói liên tục thay đổi. Nhưng do sự tách biệt giữa ngôn ngữ văn viết và văn nói, nên về tổng thể nó vẫn duy trì được tính liên tục không thay đổi. Học sinh thời nhà Thanh vẫn có thể đọc hiểu được sách vở của thời nhà Tống, nhà Đường thậm chí là thời Tiên Tần. Điều này khiến cho văn hóa truyền thống Trung Quốc nhờ chữ viết mà được truyền lại hàng nghìn năm không gián đoạn. Tà linh cộng sản lừa gạt người Trung Quốc, thông qua việc thay đổi chữ viết mà cắt đứt gốc rễ văn hóa của mình, đồng thời việc hợp nhất văn viết với văn nói cũng khiến văn viết dễ dàng bị lai tạp, biến dị thêm một bước nữa, đẩy người Trung Quốc rời xa truyền thống hơn.
Vào khoảng thời gian khi ĐCSTQ thành lập, giáo dục “xóa mù chữ” và giáo dục tiểu học phổ cập văn hóa đã trực tiếp nhồi nhét, tẩy não học sinh một cách trắng trợn. Những câu đầu tiên mà học sinh lớp xóa mù chữ và học sinh lớp 1 bậc tiểu học được học tràn đầy lập trường giai cấp “yêu ghét rõ ràng”: “Mao Chủ tịch vạn tuế”, “Xã hội cũ có vạn điều xấu”, “Chủ nghĩa đế quốc Mỹ có vạn điều xấu”… những thứ này cùng với chủ nghĩa tiệm tiến đã tiêm nhiễm những tư tưởng biến dị như “Heather có hai bà mẹ” vào các sách báo mà trẻ em đọc, mặc dù có sự tương phản rõ rệt về phương thức thực hiện, nhưng về bản chất đều là nhồi nhét hình thái ý thức. Những trẻ em được giáo dục bằng phương pháp của ĐCSTQ khi lớn lên sẽ chủ động bảo vệ cho bạo lực chính trị của ĐCSTQ, công kích, chửi bới lung tung những người ủng hộ giá trị phổ quát trên mạng internet; còn những đứa trẻ sống trong môi trường giáo dục của chủ nghĩa tiệm tiến khi lớn lên sẽ lấy lý do “kỳ thị” để không cho phép người ta nói về những lý niệm truyền thống.
Không lâu sau khi thành lập chính quyền, ĐCSTQ lại bắt đầu cuộc “vận động cải tạo tư tưởng phần tử trí thức”, trọng điểm là các trường đại học và trung học. Mục đích chủ yếu của nó là cải tạo nhân sinh quan của phần tử trí thức, cưỡng ép họ vứt bỏ chuẩn mực đạo đức truyền thống, vứt bỏ các quan niệm nhân sinh như tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, sử dụng phương pháp phân tích giai cấp của chủ nghĩa Marx, đứng trên lập trường “giai cấp vô sản” mà nhìn nhận thế giới và nhân sinh. Đặc biệt là các giáo sư được đào tạo trong “thời đại cũ”, cần phải kiểm thảo, thú tội nhiều lần, phải tiếp nhận sự phê phán và tố cáo của học sinh và đồng nghiệp, ngay cả “tư tưởng phản động” ẩn sâu trong tiềm ý thức cũng phải thanh trừ, những điều đó không còn gọi là “công kích vi mô” nữa mà là “điên cuồng công kích” giai cấp vô sản. Đương nhiên việc này còn kịch liệt hơn cả “đào tạo độ nhạy cảm”, thậm chí một số người không nhẫn chịu được sự sỉ nhục và áp lực này nên đã tự sát. [55]
Tiếp sau đó, ĐCSTQ triển khai “điều chỉnh lại các khoa viện” trong các trường đại học, cắt giảm, sáp nhập, xóa bỏ rất nhiều khoa nhân văn trong các trường đại học như triết học, xã hội học…, rất nhiều trường đại học tổng hợp chỉ còn lại ngành khoa học tự nhiên theo mô hình Liên Xô. Nếu duy trì các môn khoa học nhân văn như mô hình đào tạo tự do trong thời kỳ Trung Hoa Dân quốc thì chắc chắn sẽ dạy cho học sinh có quan điểm tư tưởng độc lập đối với các vấn đề chính trị và xã hội, điều này là sự “uy hiếp” mà chính quyền bạo lực ĐCSTQ không thể chịu được. Thay vào đó, triết học và chính trị chủ nghĩa Marx trở thành môn học bắt buộc của tất cả học sinh. Toàn bộ quá trình này phải hoàn thành trong 2-3 năm, so với việc ma quỷ tạo ra những môn học mới nhằm mục đích truyền bá hình thái ý thức cho một thế hệ người ở phương tây, từ đó đưa tư tưởng chủ nghĩa Marx xâm chiếm các trường đại học, về hành động là trái ngược nhau, thời gian thực hiện cũng khác nhau rất lớn, nhưng kết quả đạt được thì gần giống nhau.
Năm 1958, ĐCSTQ bắt đầu “cải cách giáo dục”, đặc điểm nổi bật của nó là: đầu tiên, nhấn mạnh giáo dục để phục vụ giai cấp vô sản, “phá trừ tư tưởng mê tín của các chuyên gia thuộc giai cấp tư sản”, dưới sự lãnh đạo của đảng ủy, tổ chức học sinh đã biên tập lại đại cương và tài liệu giảng dạy. Trong thời gian 30 ngày, 60 học sinh khoa tiếng Trung của Đại học Bắc Kinh đã biên tập một bộ “Lịch sử văn học Trung Quốc” dài tới 700 nghìn chữ. [56] Điều này đã thể hiện rõ quan điểm lấy “học sinh làm trung tâm”, “học tập theo phương thức tìm hiểu”, “học tập theo phương thức hợp tác” mà giáo dục tiến bộ nhấn mạnh, học cái gì, học thế nào đều do học sinh tự quyết định. Mục đích rất rõ ràng, chính là phá bỏ sự “mê tín” đối với quyền uy (thực chất là nhồi nhét quan niệm phản truyền thống), phóng đại chủ nghĩa lấy bản thân làm trung tâm của học sinh, đặt nền móng cho bước “tạo phản” tiếp theo trong cuộc Cách mạng văn hóa. Thứ nữa, nhấn mạnh kết hợp giáo dục và lao động sản xuất, các trường học đều trở thành công xưởng, trong thời kỳ đỉnh cao của cuộc Đại nhảy vọt, giáo viên và học sinh đã luyện thép và làm việc trong trang trại. Ngay cả một trường đại học xã hội thuần túy như đại học Nhân dân cũng có tới 108 công xưởng. Về danh nghĩa là để học sinh “học tập bằng thực tiễn (learning by doing)”, kỳ thực khiến học sinh chẳng học được gì.
Trong cuộc “Đại cách mạng văn hóa”, học sinh bị huy động đập nát tất cả di sản văn hóa vật thể và phi vật thể liên quan đến văn hóa truyền thống (chi tiết xem chương 6 cuốn sách này), điều này rất ăn khớp với phong trào phản văn hóa ở phương Tây. Sau khi Đại cách mạng văn hóa bùng phát, Mao Trạch Đông tuyên bố “hiện tượng phần tử trí thức giai cấp tư sản thống trị trong các trường học của chúng ta không thể tiếp tục diễn ra nữa”. Ngày 13/6/1966, ĐCSTQ ra thông báo cải cách phương thức tuyển sinh đại học, thực thi “hành động sửa chữa”: xóa bỏ kỳ thi tuyển sinh đầu vào đại học, thu nhận một lượng lớn học sinh thuộc đội ngũ “công nông binh”. Bộ phim “Quyết liệt” trong Đại cách mạng văn hóa đã đưa ra lý do cải cách tuyển sinh như sau: Một người thanh niên xuất thân bần nông, văn hóa thấp, nhưng nhờ vào đôi bàn tay chai sạn do làm nông mà đủ tư cách nhập học. Hiệu trưởng cho rằng “Văn hóa thấp, có thể trách chúng ta được không? Không thể! Món nợ này chỉ có thể tính lên Quốc Dân đảng, địa chủ, giai cấp tư sản (kẻ áp bức)!” Ở phương Tây lúc bấy giờ, có giáo sư đã đăng bài luận văn chứng minh rằng kỳ thi toán học sẽ dẫn đến kỳ thị chủng tộc (vì một số học sinh người dân tộc thiểu số có thành tích toán học thấp hơn học sinh người da trắng). [57] Cũng có giáo sư xuất bản luận văn nói rằng việc đem trình độ toán học cao của học sinh nam để áp cho tất cả các học sinh đã gây nên sự kỳ thị giới tính đối với học sinh nữ. [58] Quy định bàn tay chai sần mà lên đại học và việc quy kết thành tích toán học thấp của học sinh là do chủng tộc và kỳ thị giới tính, đây cũng là thủ đoạn mà ma quỷ dùng để làm học sinh suy yếu trí tuệ.
Sau Đại cách mạng văn hóa, Trung Quốc khôi phục lại kỳ thi đại học. Từ đó “thi đại học” trở thành cây gậy chỉ huy cho giáo dục, giáo dục trung học và tiểu học hoàn toàn lấy thi đại học làm mục đích cuối cùng. Dưới chế độ giáo dục chú trọng kết quả và lợi ích này, một lô lớn học sinh trở thành cỗ máy thi cử, không có năng lực tư duy độc lập, cũng không có năng lực phân biệt đúng sai. Đồng thời triết học chủ nghĩa Marx và kinh tế học chính trị trở thành môn học bắt buộc không thể bỏ qua. Trong quá trình tẩy não khiến học sinh đoạn tuyệt với truyền thống, thì tiêu chuẩn thiện ác, đúng sai hoàn toàn do ma quỷ thao túng. Vì thế sau cuộc tấn công khủng bố ngày 11/9, rất nhiều học sinh hân hoan; học sinh tiểu học tuyên bố “lớn lên muốn trở thành quan tham nhũng”; sinh viên đại học làm nghề mại dâm và mang thai hộ trở thành trào lưu ở các trường đại học. Ma quỷ đã bắt cóc thế hệ sau của chúng ta.
Lời kết: Quay trở về giáo dục truyền thống
Giáo dục là phương tiện để truyền thừa nền văn minh của một quốc gia, dân tộc và nhân loại cho thế hệ tương lai, là kế sách lớn cho trăm nghìn năm. Nhìn lại 100 năm qua, nền giáo dục Mỹ dưới ảnh hưởng và thâm nhập của tà linh cộng sản đã phải hứng chịu trăm ngàn vết thương, phụ huynh và giáo viên bị bó buộc đến mức không thể mang đến cho học sinh sự giáo dục tốt đẹp, trường học vốn là nơi để cho học sinh rèn luyện thành tài lại trở thành nơi phóng túng học sinh, dẫn dắt các em lạc lối. Sự khiếm khuyết về đạo đức, kỹ năng kém cỏi, suy giảm sức chịu đựng tâm lý cùng các thói hư tật xấu, dâm loạn, phản truyền thống, phản xã hội của học sinh khiến toàn xã hội lo lắng. Ma quỷ cộng sản đang nuốt chửng tương lai và thế hệ sau của nhân loại.
Trong cuốn sách “Người cộng sản trần trụi” xuất bản năm 1958 đã nêu ra rằng các mục tiêu liên quan đến giáo dục trong 45 mục tiêu của đảng cộng sản là: “Khống chế trường học; biến trường học thành nơi trung gian tuyên truyền chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; làm giảm chất lượng giáo trình học; khống chế liên hiệp công đoàn giáo viên; đưa cương lĩnh của đảng vào sách giáo khoa.” [59] Nhìn vào giáo dục của nước Mỹ, có thể thấy những mục tiêu này không những đã đạt được, mà tình hình còn nghiêm trọng hơn. Do thực lực kinh tế chính trị lớn mạnh của nước Mỹ, văn hóa Mỹ cũng là đối tượng để các quốc gia khác trên toàn thế giới ngưỡng mộ và học tập, đại bộ phận các quốc gia đều noi theo Mỹ để cải cách giáo dục. Quan niệm giảng dạy, tài liệu giáo dục, phương pháp giảng dạy và quản lý giáo dục của Mỹ đã ảnh hưởng tới rất nhiều quốc gia. Vì thế ở một mức độ nhất định, thay đổi giáo dục ở Mỹ đồng nghĩa với thay đổi giáo dục toàn thế giới.
Khi mới sáng lập thế giới hoặc khi nền văn minh nhân loại trở nên bại hoại, sẽ có Giác giả hoặc Thánh nhân xuất thế. Những Giác giả hoặc Thánh nhân này là những người được người ta gọi là “Thầy”, như Socrates, người đặt nền móng cho văn minh Hy Lạp cổ đại, là một nhà giáo dục; trong sách Phúc âm, Jesus cũng tự xưng là Thầy; Phật Thích Ca Mâu Ni có 10 danh xưng, trong đó có một danh xưng là “Thiên nhân chi sư (thầy của người trời)”; Khổng Tử là một nhà giáo dục, còn Lão Tử lại là thầy của Khổng Tử. Họ dạy con người cách làm người căn bản, làm thế nào kính Thần, làm thế nào đối nhân xử thế, đề cao đạo đức.
Những Thánh nhân và Giác giả được gọi là “Thầy” này là những nhà giáo dục vĩ đại nhất của nhân loại, lời dạy của họ đã bồi đắp nên hình thái của các nền văn minh lớn, trở thành kinh điển quan trọng nhất của các nền văn minh lớn. Phương pháp đề cao đạo đức và giá trị quan mà họ truyền thụ mới là Đại Đạo giúp mỗi cá nhân đạt đến tinh thần khỏe mạnh. Mà mỗi cá nhân tinh thần khỏe mạnh mới có thể bảo đảm cho các yếu tố căn bản của xã hội thịnh vượng. Không lạ gì khi những nhà giáo dục vĩ đại nhất này đều đưa ra một kết luận như nhau: giáo dục là để bồi dưỡng phẩm chất đạo đức lương thiện.
Giáo dục cổ điển phương Đông và phương Tây đã từng trải qua thực tiễn hàng nghìn năm, tuân theo văn hóa mà Thần truyền cho con người, lưu giữ rất nhiều tài nguyên và kinh nghiệm quý giá. Theo tinh thần của giáo dục cổ điển, tài đức toàn vẹn là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá giáo dục có thành công hay không. Trong quá trình nhân loại tìm kiếm con đường trở về với giáo dục truyền thống, kho tàng giáo dục cổ điển xứng đáng để chúng ta kiên trì nghiên cứu và học hỏi.
Người có đạo đức cao thượng có thể quản lý, kiểm soát bản thân, đây là hình thái xã hội mà những người thành lập nước Mỹ hy vọng. Người có đạo đức cao thượng sẽ được Thần ban thưởng, dựa vào lao động và trí tuệ sẽ có được vật chất đầy đủ và tinh thần sung mãn. Quan trọng hơn là người có đạo đức cao thượng mới có thể giúp xã hội phồn vinh đời đời, không ngừng phát triển. Đây là khải thị của những Thánh nhân và Giác giả – những nhà giáo dục vĩ đại nhất của nhân loại, giúp con người quay trở về với giáo dục truyền thống.
*********
Tài liệu tham khảo:[1] A Nation at Risk, https://www2.ed.gov/pubs/NatAtRisk/risk.html.
[2] Như trên.
[3] Mark Bauerlein, The Dumbest Generation: How the Digital Age Stupefies Young Americans and Jeopardizes Our Future (New York: Jeremy P. Tarcher/Penguin, 2008), Chapter One.
[4] John Taylor Gatto, Dumbing Us Down: The Hidden Curriculum of Compulsory Schooling (Gabriola Island, BC, Candda: New Society Publishers, 2005), 12.
[5] Charles J. Sykes, Dumbing Down Our Kids: Why American Children Feel Good about Themselves but Can』t Read, Write, or Add (New York: St. Martin”s Griffin, 1995), 148-9.
[6] Thomas Sowell, Inside American Education (New York: The Free Press, 1993), 4.
[7] Charlotte Thomson Iserbyt, The Deliberate Dumbing Down of America: A Chronological Paper Trail (Ravenna, Ohio: Conscience Press, 1999), xvii.
[8] Quoted from Robin S. Eubanks, Credentialed to Destroy: How and Why Education Became a Weapon (invisibleserfscollar.com, 2013), 48.
[9] Quoted from Eubanks, Credentialed to Destroy: How and Why Education Became a Weapon, 49.
[10] Quoted from Eubanks, Credentialed to Destroy: How and Why Education Became a Weapon, 45-46.
[11] 「Ten Most Harmful Books of the 19th and 20th Centuries,
Human Events, May 31, 2005, http://humanevents.com/2005/05/31/ten-most-harmful-books-of-the-19th-and-20th-centuries/.
[12] Mortimer Smith, And Madly Teach: A Layman Looks at Public School Education (Chicago: Henry Regnery Company, 1949). Tìm đọc thêm các tác phẩm liên quan của các tác giả Arthur Bestor, Educational Wastelands: The Retreat from Learning in Our Public Schools, 2nd ed. (Champaign, Illinois: University of Illinois Press, 1985).
[13] John A. Stormer, None Dare Call It Treason (Florissant, Missouri: Liberty Bell Press, 1964), 99.
[14] I. L. Kandel, 「Prejudice the Garden toward Roses?
The American Scholar, Vol. 8, No. 1 (Winter 1938-1939), 77.
[15] Christopher Turner, 「A Conversation about Happiness, Review – A Childhood at Summerhill,
The Guardian, March 28, 2014, https://www.theguardian.com/books/2014/mar/28/conversation-happiness-summerhill-school-review-mikey-cuddihy.
[16] Alexander Neil, Summerhill School: A Radical Approach to Child Bearing (New York: Hart Publishing Company, 1960), Chapter 3.
[17] Alexander Neil, Summerhill School: A Radical Approach to Child Bearing, Chapter 7.
[18] Joanne Lipman, 「Why Tough Teachers Get Good Results,
The Wall Street Journal, September 27, 2013, https://www.wsj.com/articles/why-tough-teachers-get-good-results-1380323772.
[19] Daisy Christodoulou, Seven Myths about Education (London: Routledge, 2014).
[20] Diane West, The Death of the Grown-Up: How America”s Arrested Development Is Bringing down Western Civilization (New York: St. Martin”s Press, 2008), 1-2.
[21] Fred Schwartz and David Noebel, You Can Still Trust the Communists…to Be Communists (Socialists and Progressives too) (Manitou Springs, CO: Christian Anti-Communism Crusade, 2010), back cover.
[22] John Taylor Gatto, The Underground History of American Education: A Schoolteacher”s Intimate Investigation into the Problem of Modern Schooling (The Odysseus Group, 2000), Chapter 14.
[23] Diane Ravitch, 「Education after the Culture Wars,
Dædalus 131, no. 3 (Summer 2002), 5-21.
[24] Steven Jacobson, Mind Control in the United States (1985), https://archive.org/details/pdfy-6IKtdfWsaYpENGlz, page 16.
[25] Katherine Kersten, 「Inside a Public School Social Justice Factory,
The Weekly Standard, February 1, 2018, https://www.weeklystandard.com/inside-a-public-school-social-justice-factory/article/2011402.
[26] History Social-Science Framework (Adopted by the California State Board of Education, July 2016, Published by the California Department of Education, Sacramento, 2017), https://www.cde.ca.gov/ci/hs/cf/documents/hssfwchapter16.pdf, p. 431.
[27] Như trên,trang 391.
[28] Stanley Kurtz, 「Will California”s Leftist K-12 Curriculum Go National?
National Review, June 1, 2016, https://www.nationalreview.com/corner/will-californias-leftist-k-12-curriculum-go-national/.
[29] Phyllis Schlafly, ed., Child Abuse in the Classroom (Alton, Illinois: Pere Marquette Press, 1984), 13.
[30] Herbert Marcuse, Eros and Civilization: A Philosophical Inquiry into Freud (Boston: Beacon Press, 1966), 35.
[31] Quoted from B. K. Eakman, Cloning of the American Mind: Eradicating Morality through Education (Lafayette, Louisiana: Huntington House Publishers, 1998), 109.
[32] William Kilpatrick, Why Johnny Can』t Tell Right from Wrong and What We Can Do about It (New York: Simon & Schuster, 1992), 16-17.
[33] Thomas Sowell, Inside American Education: The Decline, the Deception, the Dogmas, 36.
[34] Thomas Sowell, Inside American Education: The Decline, the Deception, the Dogmas (New York: The Free Press, 1993), Chapter 3.
[35] 「Death in the Classroom,
20/20, ABC Network, September 21, 1990. Available at:https://www.youtube.com/watch?v=vbiY6Fz6Few.
[36] Thomas Sowell, Inside American Education: The Decline, the Deception, the Dogmas, 38.
[37] William Kilpatrick, Why Johnny Can』t Tell Right from Wrong and What We Can Do about It, 32.
[38] William Kilpatrick, Why Johnny Can』t Tell Right from Wrong and What We Can Do about It, 45.
[39] 「We Teach Children Sex… Then Wonder Why They Have It,
Daily Mail, August 1, 2004, http://www.dailymail.co.uk/debate/article-312383/We-teach-children-sex–wonder-it.html.
[40] 「Focus on Youth with ImPACT: Participant”s Manual,
Centers for Disease Control and Prevention, https://effectiveinterventions.cdc.gov/docs/default-source/foy-implementation-materials/FOY_Participant_Manual.pdf?sfvrsn=0.
[41] Robert Rector, 「When Sex Ed Becomes Porn 101,
The Heritage Foundation, August 27th, 2003, https://www.heritage.org/education/commentary/when-sex-ed-becomes-porn-101.
[42] Rebecca Hersher, 「It May Be 『Perfectly Normal』, But It”s Also Frequently Banned,
National Public Radio, September 21, 2014, https://www.npr.org/2014/09/21/350366435/it-may-be-perfectly-normal-but-its-also-frequently-banned
[43] William Kilpatrick, Why Johnny Can』t Tell Right from Wrong and What We Can Do about It, 53.
[44] Maureen Stout, The Feel-Good Curriculum: The Dumbing down of America”s Kids in the Name of Self-Esteem (Cambridge, Massachusetts: Perseus Publishing, 2000), 1-3.
[45] Maureen Stout, The Feel-Good Curriculum: The Dumbing down of America”s Kids in the Name of Self-Esteem, 17.
[46] B. K. Eakman, Educating for the 『New World Order』 (Portland, Oregon: Halcyon House, 1991), 129.
[47] Sol Stern, 「How Teachers』 Unions Handcuff Schools,
The City Journal, Spring 1997, https://www.city-journal.org/html/how-teachers’-unions-handcuff-schools-12102.html.
[48] Troy Senik, 「The Worst Union in America: How the California Teachers Association Betrayed the Schools and Crippled the State,
The City Journal, Spring 2012, https://www.city-journal.org/html/worst-union-america-13470.html.
[49] William Kilpatrick, Why Johnny Can』t Tell Right from Wrong and What We Can Do about It, 39.
[50] Samuel Blumenfeld and Alex Newman, Crimes of the Educators: How Utopians Are Using Government Schools to Destroy America”s Children (Washington D. C.: WND Books, 2015), Chapter 14.
[51] Phillis Schlafly, Child Abuse in the Classroom, 14.
[52] Tham khảo Valerie Strauss, 「A serious Rant about Education Jargon and How It Hurts Efforts to Improve Schools,
Washington Post, November 11, 2015, https://www.washingtonpost.com/news/answer-sheet/wp/2015/11/11/a-serious-rant-about-education-jargon-and-how-it-hurts-efforts-to-improve-schools/?utm_term=.8ab3d85e9e45.
[53] John A. Stormer, None Dare Call It Treason, 104-106.
[54] Ví dụ tiêu chuẩn hạt nhân cộng đồng (Common Core Standards) bị xã hội phê phán và nghi vấn, nguyên nhân là tiêu chuẩn này đầy rẫy những cái gọi là “tài liệu tham khảo” chứa đầy hình thái ý thức cánh tả, rất nhiều tác phẩm văn học chứa đầy những miêu tả tình dục trắng trợn, hạ thấp tiêu chuẩn toán học v.v. Xin tham khảo: Duke Pesta, 「Duke Pesta on Common Core – Six Years Later,
https://www.youtube.com/watch?v=wyRr6nBEnz4, Diane Ravitch, 「The Common Core Costs Billions and Hurts Students,
New York Times, July 23, 2016, https://www.nytimes.com/2016/07/24/opinion/sunday/the-common-core-costs-billions-and-hurts-students.html.
[55] Có rất nhiều ví dụ về phương diện này, có thể tham khảo bài viết của Chu Kình: “Cơn lốc 10 năm: Diện mạo thật của chính quyền đỏ Trung Quốc” (Hồng Kông: Nhà xuất bản thời đại, năm 1962) đường dẫn: https://www.marxists.org/chinese/reference-books/zjw1959/06.htm#2。
[56] La Bình Hán,(Cách mạng giáo dục 1958), “Kho tàng lịch sử Đảng”,Kỳ 34.
[57] Robert Gearty, 「White Privilege Bolstered by Teaching Math, University Professor Says,
Fox News, October 24, 2017, http://www.foxnews.com/us/2017/10/24/white-privilege-bolstered-by-teaching-math-university-professor-says.html.
[58] Toni Airaksinen, 「Prof Complains about 『Masculinization of Mathematics』,
Campus Reform, August 24, 2017, https://www.campusreform.org/?ID=9544.
[59] W. Cleon Skousen, The Naked Communist (Salt Lake City: Izzard Ink Publishing, 1958, 2014), Chapter 12.
Bản tiếng Hán: http://www.epochtimes.com/gb/18/7/15/n10564808.htm
Bản tiếng Anh: https://www.theepochtimes.com/chapter-twelve-sabotaging-education-part-i_2636144.html
Bản dịch có thể được chỉnh sửa trong tương lai để sát hơn với nguyên tác.