Chương 16: Chủ nghĩa bảo vệ môi trường – Sự thao túng của Chủ nghĩa Cộng sản ở phía sau Chủ nghĩa bảo vệ môi trường (Phần II) (audio)
2.3 Vì sao những nhà khoa học phái hoài nghi không thừa nhận “đồng thuận”
2.4 Vì sao những nhà khoa học chủ nghĩa bảo vệ môi trường ưa chuộng lý luận về “thảm họa”
3. Chủ nghĩa bảo vệ môi trường đang trở thành một hình thái khác của chủ nghĩa cộng sản
3.1 Xâm nhập vào chính trị, xây dựng chính phủ toàn cầu
3.2 Đả kích chủ nghĩa tư bản
3.3 Phát động cuộc tấn công truyền thông, áp chế tiếng nói bất đồng
3.4 Thao túng các đoàn thể “dân chúng”, phát động cách mạng đường phố
3.5 Tôn giáo mới của chủ nghĩa phản nhân bản
Lời kết: Tín Thần kính ngưỡng Trời, khôi phục truyền thống, thoát khỏi nguy cơ môi trường
=========
2. Sự hoang đường của “đồng thuận” biến đổi khí hậu (Tiếp phần I)
2.3 Vì sao những nhà khoa học phái hoài nghi không thừa nhận “đồng thuận”
Như đã nêu ở phần trên, các nhà khoa học đang có những quan điểm khác nhau rất lớn trong những vấn đề như hoạt động của con người có phải là nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến hiện tượng thay đổi khí hậu và cả dự báo thay đổi khí hậu trong tương lai hay không v.v. Những quan điểm khác nhau này xuất phát từ rất nhiều phương diện: Đầu tiên sự biến đổi của khí hậu là một đề tài cực kỳ phức tạp, liên quan đến rất nhiều lĩnh vực như thiên văn học, khí tượng học, sinh thái học, quang hóa học, quang phổ học, hải dương học v.v., đồng thời hệ thống khí hậu lại bao hàm rất nhiều những hệ thống nhỏ hơn có tác dụng tương hỗ chặt chẽ với nhau như khí quyển, hệ thống hải dương, hệ sinh vật, hệ thống tầng nham thạch v.v., trong đó có rất nhiều quá trình vật lý, hóa học, sinh vật vẫn đang là những lĩnh vực mà con người hiện nay còn xa mới biết được rõ. Sự biến đổi của khí hậu ở Trái đất chưa hề dừng lại trong những niên đại địa chất trong quá khứ, sự nóng lên của khí hậu cũng đã lặp lại nhiều lần. Ở triều đại Nhà Thương của Trung quốc 3000 năm trước, vùng đất Trung nguyên đã từng là một vùng đất cận nhiệt đới, có rất nhiều những ghi chép về việc săn bắt voi trong các văn tự Giáp cốt. Khi đó nhiệt độ bình quân cao hơn khoảng 2°C so với ngày nay. Thời kỳ sau đó là thời kỳ khí hậu Trung quốc nóng lạnh đan xen, đến triều Nhà Đường lại trải qua một thời kỳ khí hậu nóng nữa, thời kỳ Khai Nguyên thịnh thế có thể trồng các loại cam quýt trong cung điện ở Trường An. [1] Ở Phương Tây, trong thời đại trung cổ ấm nóng (medieval warming, khoảng những năm 950 đến 1250 sau công nguyên), người Châu âu đã xây dựng những nhà thờ lớn (cathedrals) to đẹp ở các nơi. [2] Đã có sự thay đổi khí hậu thậm chí là thay đổi vô cùng lớn trong các niên đại địa chất. Ví dụ như đã xảy ra một lần nóng lên rất nhanh ở bắc bán cầu vào khoảng 11270 năm trước, chỉ trong vài năm nhiệt độ đã nhanh chóng tăng lên khoảng 4°C. Một lần thời tiết nóng lên nổi tiếng khác trước đó xảy ra vào khi kết thúc thời kỳ lạnh giá “Younger dryas”, trong vài chục năm nhiệt độ đã tăng khoảng 10°C. [3] Nguyên nhân gây ra những sự thay đổi khí hậu này, đến nay vẫn là đề tài tranh luận của các nhà khoa học.
Rất hiển nhiên, nếu chúng ta không giải thích được nguyên nhân biến đổi khí hậu quá khứ, vậy cũng tương tự như vậy chúng ta cũng không sẽ nắm rõ được nguyên nhân của sự thay đổi khí hậu ở hiện đại, vì một nguyên nhân nào đó gây ra sự biến đổi khí hậu trong quá khứ có thể vẫn có tác dụng trong hiện tại. Vì thế rất nhiều nhà khoa học chủ trương chúng ta nên dùng thái độ khiêm tốn để đối xử với vấn đề thay đổi khí hậu, thừa nhận hiểu biết hạn chế của chúng ta.
Tiến sỹ Freeman Dyson, nhà khoa học nổi tiếng và là viện sỹ của Hội khoa học hoàng gia Anh và Viện hàn lâm khoa học Mỹ cho rằng khoa học hiện đại cũng không thực sự giải thích được sự biến đổi khí hậu: “Tín điều có vấn đề nhất, đó là cho rằng khoa học biến đổi khí hậu đã được giải quyết, đã được nhận thức và liễu giải. Biến đổi khí hậu lớn nhất trên trái đất là Kỷ băng hà, khi đó đã từng có một nửa bề mặt của châu Âu và Bắc Mỹ được bao phủ bởi một lớp băng dày 1 Km. Kỷ băng hà xuất hiện nhiều lần trong quá khứ, chúng ta chính là đang bước vào một thời kỳ băng hà tiếp theo. Có rất nhiều lý luận liên quan đến Kỷ băng hà, nhưng không có một lý luận nào có thể thực sự lý giải vấn đề này. Khi chúng ta vẫn không lý giải được Kỷ băng hà thì chúng ta vẫn không được tính là lý giải được khí hậu”. [4]
Do tính chất phức tạp của vấn đề khí hậu, khiến cho nó không cách nào có thể tiến hành thực nghiệm và kiểm chứng được ở một điều kiện có thể kiểm soát được trong phòng thí nghiệm, vì thế mô hình khí hậu máy tính đã trở thành một công cụ quan trọng của nghiên cứu biến đổi khí hậu của khoa học nghiên cứu khí hậu ngày nay.
Sở dĩ những báo cáo của IPCC có thể đưa ra kết luận rằng con người là nguyên nhân chủ yếu gây ra sự nóng lên toàn cầu, là nhờ những bằng chứng chủ chốt đến từ những tính toán của mô hình khí hậu máy tính của nó. Việc đo lường nhiệt độ sẽ tăng lên bao nhiêu trong khoảng cuối thế kỷ 21 cũng là kết quả từ việc sử dụng mô hình tính toán. Các loại hậu quả mà lý luận “thảm họa khí hậu” dự đoán cũng là dựa trên cở sở kết quả dự đoán của mô hình.
Rất nhiều nhà khoa học bảo lưu thái độ đối với độ tin cậy của mô hình khí hậu. Giáo sư Judith Curry cho rằng nhân tố tự nhiên có tác dụng chủ yếu trong sự biến đổi khí hậu. [5] Trong bài viết của bà được đăng trên “Nguyệt san Hội khoa học khí tượng Mỹ” đã chỉ ra rằng, IPCC đã bỏ qua tính không chắc chắn trong mô hình tính toán một cách rất ghê gớm. [6]
Mô hình khí hậu tồn tại rất nhiều hạn chế: Về một số quá trình then chốt trong sự biến đổi khí hậu, thì hoặc là do sự hiểu biết không đầy đủ của chúng ta, hoặc là do khả năng xử lý không đầy đủ của mô hình trên máy tính, từ đó không thể được phản ánh chân thực trong mô hình. Các nhà nghiên cứu mô hình đã sử dụng biện pháp tham số hóa (parameterization) để làm đơn giản hóa quá trình này theo cách “bán kinh nghiệm” (semi-empirical), ví dụ như quá trình hình thành mây (bao gồm tác dụng của hơi nước trong đó), quá trình mưa, tác dụng tương hỗ của bức xạ mặt trời và mây, quá trình vật lý hóa học của khí dung giao (những hạt nhỏ thể rắn hoặc lỏng trong khí quyển) v.v. [7] Điều này khiến cho mô hình có độ không chắc chắn rất lớn. Hơi nước là thành phần chính và chủ yếu nhất của khí gây hiệu ứng nhà kính, [8] nhưng do tùy vào điều kiện thời gian và không gian thì nó sẽ có sự biến đổi rất lớn, mức độ không chắc chắn tương ứng cũng lớn hơn, thậm chí tác dụng làm nóng của hơi nước ở các độ cao khác nhau cũng khác nhau, nhưng vệ tinh đo lường sự phân bố của hơi nước theo phương thẳng đứng nên độ dung sai có thể từ 15-40%; [9] mây ở tầng thấp của khí quyển vì sự phản xạ của ánh sáng mặt trời mà có tác dụng làm lạnh rất mạnh, mây ở tầng cao bán trong suốt nên có tác dụng làm tăng nhiệt độ, có một số khí dung giao (ví dụ như vật chất từ núi lửa phun trào) ngăn cản ánh sáng mặt trời, có tác dụng làm lạnh, nhưng một số lại hấp thu tia bức xạ nhiệt (ví dụ như khói bụi đen), có tác dụng làm tăng nhiệt độ; đồng thời khí dung giao còn có thể hỗ trợ hình thành mây, dẫn đến hiệu quả làm lạnh gián tiếp, không gian và thời gian phân bố, đặc tính quang học của khí dung giao và mây cũng có biến đổi rất lớn; mặt đất do sự phát triển và chết đi của thực vật sẽ thay đổi độ phản xạ của nó, v.v.
Đối với những quá trình quan trọng này, hoặc là do số liệu đo đạc không đầy đủ, hoặc là do trước mắt các nhà khoa học không có sự thấu hiểu đầy đủ đối với những quá trình này, nên đều dẫn đến việc tham số hóa của mô hình khí hậu tồn tại mức độ tự do (tính tùy tiện) rất lớn, làm tính không chắc chắn của mô hình bị tăng lên rất nhiều. Điều này dẫn đến việc một số nhà khoa học đã bảo lưu thái độ về độ tin cậy của mô hình – rốt cuộc khí thải nhà kính như CO2 chỉ làm tăng năng lượng trực tiếp (radiative forcing) của trái đất khoảng 2.5W/m2, [10] nhưng năng lượng bức xạ mặt trời mà trái đất tiếp thụ là khoảng 1366W/m2, [11] độ bất định của tỷ suất phản chiếu do mây hoặc khí dung giao tạo ra chỉ biến thiên 2/1000, điều này đã đủ để vượt qua tác dụng của khí thải nhà kính.
Các nhà khoa học của Đại học Harvard như Willie Soon cho rằng mô hình khí hậu không phù hợp để đưa ra dự báo về sự thay đổi của khí hậu trong tương lai. [12] Tiến sỹ Freeman Dyson gọi các tham số trong mô hình là “nhân tố kẹo ngọt” (fudge factor, bởi vì những nhân tố này có thể được con người điều chỉnh). Ông cho rằng chúng ta có thể học được một số điều từ mô hình, nhưng không thể dùng nó để dự báo: “Bạn có một công thức, nhưng khi bạn sử dụng nó ở những điều kiện khí hậu khác nhau, khi bạn có gấp đôi lượng khí CO2, bạn sẽ không thể đảm bảo được sự chính xác của mô hình, không có biện pháp kiểm chứng được nó.” [13] Ngoài ra, Tiến sỹ Freeman Dyson cho rằng IPCC đã bỏ qua tác dụng của mặt trời trong hệ thống khí hậu một cách nghiêm trọng, ông cho rằng mặt trời mới là nhân tố chủ yếu quyết định sự thay đổi khí hậu, chứ không phải con người.
Theo một loạt các luận văn được viết từ những năm 2002 của Nhà khoa học người Israel, Nir J.Shaviv, ông căn cứ trên mối liên hệ giữa lượng tia bức xạ vũ trụ và lượng mây mà vệ tinh đo đạc được, thấy rằng Kỷ băng hà trên trái đất có liên hệ với các tia vũ trụ, chỉ ra rằng tia vũ trụ đã dẫn tới sự thay đổi khí hậu. Đồng thời ông biểu thị, sự thay đổi của tia bức xạ mặt trời cũng dẫn tới tác dụng tương tự với hoạt động của con người trong sự tăng cao của nhiệt độ bình quân trên toàn trái đất trong thế kỷ 20 (nếu không muốn nói là lớn hơn), ông cho rằng, không những thế tác động của khí thải nhà kính của con người đối với sự nóng lên toàn cầu trên thực tế nhỏ hơn so với nhận thức thông thường, hơn nữa hệ thống khí hậu trái đất cũng không (mẫn cảm) dễ bị tác động như những nhận thức thông thường trước nay. [14]
Mặt khác, bản thân khí hậu tồn tại những quá trình thay đổi nội tại của nó, điều này vẫn chưa được nhận thức đầy đủ, từ đó dẫn đến việc những mô hình khí hậu không thể phản ánh chính xác những hiện tượng này. Ví dụ như, mô hình khí hậu hiện có không thể miêu tả chính xác, lại càng không có biện pháp dự báo hiện tượng El nino. [15] Kể từ mức nhiệt độ cao nhất trong Thế Toàn Tân (Thế Miocen) khoảng 7000 năm đến 9000 năm trước đến nay, nhiệt độ toàn cầu đã hạ xuống khoảng 0.5°C đến 1°C, nhưng mô hình này lại cho thấy trong 11.000 năm qua, nhiệt độ đã tăng khoảng từ 0.5°C đến 1°C. Vì khoảng 6000 đến 7000 năm trước hàm lượng CO2 liên tục tăng lên, điều này cho thấy mô hình chỉ nhạy cảm với tác dụng gây nóng lên của khí thải nhà kính. [16] Nói một cách thông thường, thì trong các nhân tố khống chế sự thay đổi khí hậu trong hệ thống khí hậu, mô hình chỉ có thể phán ánh hệ quả tăng lên của nhiệt độ do khí thải nhà kính gây ra, nhưng lại không phản ánh chính xác sự giảm nhiệt độ do các nhân tố khác gây ra.
Ngoài ra, từ năm 1998 đến năm 2013, người ta đo đạc được rằng sự gia tăng nhiệt độ trong kết quả gần như dừng lại. Năm 2013, Hans Von Storch nhà khoa học khí hậu người Đức, giáo sư của đại học Hamburg đã cho biết “chúng tôi đang đối mặt với một vấn đề khó. Xu hướng tăng trưởng của tỷ lệ khí thải CO2 những năm gần đây trên thực tế còn cao hơn rất nhiều so với sự lo ngại của chúng ta. Vì vậy theo đại đa số các mô hình khí hậu, trong 10 năm qua, chúng ta sẽ thấy nhiệt độ tăng khoảng 0,25 độ C (0,45 độ F). Nhưng tình huống này lại không xảy ra. Trên thực tế nhiệt độ chỉ tăng lên 0,06°C (0,11 độ F) trong 15 năm qua.” Ông cho rằng điều này chứng minh hoặc là mô hình đã nhấn mạnh vào tác dụng của khí CO2, hoặc là mô hình đã xem nhẹ sự thay đổi tự nhiên của khí hậu. [17]
Đối với việc nhìn nhận như thế nào với quá trình nội bộ của hệ thống khí hậu, các nhà khoa học đều có những quan điểm khác nhau. Tiến sỹ Richard Lindzen của Viện Hàn lâm khoa học Mỹ được đề cập đến ở trên cho rằng trong hệ thống khí hậu tồn tại những cơ chế điều tiết tự nhiên của nó, vì thế tác dụng làm tăng nhiệt độ do khí thải nhà kính gây ra nhỏ hơn rất nhiều. Trong luận văn công bố năm 2001 của ông đã chỉ ra rằng, căn cứ theo số liệu đo đạc, các đám mây trên cao ở vùng nhiệt đới (có thể cho ánh sáng mặt trời xuyên qua, nhưng sẽ ngăn cản tia hồng ngoại từ mặt đất xuyên qua, có tác dụng của nhà kính) có mối tương quan ngược với nhiệt độ mặt nước biển, khi nhiệt độ tăng cao, lượng mây sẽ giảm, lúc này cho phép bề mặt trái đất được tản nhiệt thông qua việc bức xạ hồng ngoại ra vũ trụ một cách không bị cản trở, loại cơ chế điều tiết tự nhiên này tương tự như đồng tử mắt người, triệt tiêu hiệu ứng nhà kính một cách rất mạnh mẽ. [18] Lý luận này hiện tại vẫn trong quá trình tranh luận bảo vệ.
Giáo sư Roy Spencer của đại học Alabama từng là nhà khoa học gia của NASA đã tổng kết kết quả đo đạc bằng vệ tinh, đề xuất các cách nhìn nhận lý giải khác nhau về tác dụng của mây trong mô hình khí hậu. Ông chỉ ra rằng mô hình khí hậu hiện tại dựa vào hiện tượng lượng mây biến đổi theo nhiệt độ mà người ta đo đạc được, mà coi việc mây hình thành và tiêu mất là kết quả của việc nhiệt độ thay đổi, nhưng tình huống thực tế lại hoàn toàn ngược lại, là do sự thay đổi của lượng mây gây ra sự thay đổi của nhiệt độ, đồng thời điều này sẽ dẫn đến việc tác dụng tăng nhiệt độ của khí thải nhà kính nhỏ hơn rất nhiều so với dự báo của các mô hình khí hậu hiện có. [19]
Về việc lý giải như thế nào đối với các số liệu về khí tượng đo đạc được, cho đến độ tin cậy của các số liệu, các nhà khoa học vẫn có những cách nhìn khác nhau. Giáo sư khí quyển học John Christy, Chủ nhiệm Trung tâm nghiên cứu hệ thống khoa học địa cầu của trường Đại học Alabama là một trong những tác giả chủ chốt của IPCC. Ông đã phân tích tác dụng nhiễu loạn của hoạt động liên tục mở rộng và khai phá đất đai (như hoạt động nông nghiệp) đối với lớp khí gần bề mặt Trái Đất (Lớp biên khí quyển ở khu vực xung quanh trạm quan trắc khí tượng, cho rằng điều này khiến cho nhiệt độ mặt đất ghi chép được phụ thuộc vào sự gia tăng hoạt động của nhân loại và không ngừng tăng cao. Trong các ghi chép về mức tăng nhiệt độ mặt đất trong 100 năm qua, ở đa số các nơi nhiệt độ thấp nhất lúc nửa đêm tăng lên nhanh hơn so với nhiệt độ cao nhất vào ban ngày. Ông cho rằng, việc nhân loại liên tục mở rộng hoạt động trên mặt đất, chứ không phải việc gia tăng khí thải nhà kính, có thể giải thích hiện tượng này một cách rõ ràng hơn. [20]
Ngoài ra, các nhà khoa học cũng có tranh luận đối với tất cả những tác động gây ra do sự nóng lên của khí hậu. Ví dụ như, năm 2014 Giáo sư David Russell Chủ nhiệm Trung tâm nghiên cứu khí hậu của đại học Delaware đã làm chứng tại Thượng nghị viện Mỹ rằng: “kết luận của tôi là, khi thời tiết của nước Mỹ lạnh giá, hạn hán càng xảy ra thường xuyên hơn, mà còn nghiêm trọng hơn. Vì thế ghi chép lịch sử tuyệt đối không ủng hộ cách nhìn rằng sự nóng lên toàn cầu sẽ gây ra ảnh hưởng xấu đối với hoạt động nông nghiệp.” [21]
Tiến sỹ William Happer, nguyên Phó Hiệu trưởng trường Đại học Princeton từng làm chứng tại Thượng nghị viện: “Từ trên lịch sử mà xem xét thì mức CO2 hiện nay là khá thấp, hàm lượng CO2 tăng cao sẽ đem lại những điều tốt cho thực vật và canh tác nông nghiệp”, đây đều là những điều bị IPCC bỏ qua. Những năm 1990 Tiến sỹ William Happer, khi còn quản lý văn phòng nghiên cứu năng lượng của Bộ Năng lượng, là người sáng lập mô hình khí hậu thời đó. Ông cho rằng mức độ tăng nhiệt độ mà các mô hình khí hậu hiện có dự đoán là cao hơn nhiều so với mức tăng nhiệt độ đo đạc được, là vì mô hình đã ước lượng quá mức độ nhạy của hệ thống khí hậu. [22]
2.4 Vì sao những nhà khoa học chủ nghĩa bảo vệ môi trường ưa chuộng lý luận về “thảm họa”
Một nhà khoa học chủ quản của IPCC từng nói: “nếu chúng ta hy vọng tương lai sẽ có một chính sách môi trường tốt, thì điều chúng ta phải có là thảm họa. Điều này tương tự như an toàn giao thông. Phương thức duy nhất [thúc đẩy] nhân loại hành động chính là việc xuất hiện tai nạn.” [23] Mặc dù lời thanh minh sau đó của ông ta tuyệt không phải là chủ trương làm giả số liệu, nhưng tư tưởng chủ đạo rất rõ ràng: thảm họa mới có thể là nguyên nhân chủ yếu xúc tiến thành công các chính sách và hành động.
Việc liên hệ các loại hiện tượng thời tiết cực đoan với sự nóng lên toàn cầu đã trở thành một phương pháp thời thượng để khuếch đại vấn đề khí hậu, những giả thuyết khoa học phù hợp với trào lưu này cũng xuất hiện liên tục. Đầu năm 2014, Bắc Mỹ đã trải qua một hiện tượng thời tiết lạnh giá cực đoan. Có một lý luận suy đoán rằng, hiện tượng băng tan ở Bắc cực gây ra do sự nóng lên toàn cầu sẽ khiến dòng không lưu (jet stream) trên không trung có sự thay đổi, từ đó vận chuyển về phía nam khối khí lạnh của địa cực, khiến cho hiện tượng thời tiết giá lạnh cực đoan diễn ra thường xuyên hơn. Loại suy đoán ngược lại với trực giác này đương nhiên càng nhận được sự xem trọng của những nhà hoạt động của chủ nghĩa bảo vệ môi trường và giới truyền thông: ngay cả giá lạnh cực đoan cũng là cái họa do sự nóng lên của khí hậu gây ra, thì chẳng phải sẽ khiến cho chúng ta càng có lý do để ngay lập tức hành động hay sao? Nhưng trên thực tế, lịch sử khí tượng ghi chép trong thời gian dài đã cho thấy rõ tần suất xuất hiện thời tiết lạnh giá cực đoan của Bắc Mỹ càng ngày càng ít. Năm 2014, 5 chuyên gia khí hậu kiệt xuất đã cùng đứng tên trong một bức thư được đăng trên tạp chí “Khoa Học” (Science), phản đối loại giả thuyết này. Họ chỉ ra rằng: đầu những năm 60, cuối những năm 70 của thế kỷ 20 (nổi tiếng nhất là năm 1977), và năm 1983, lớp băng ở Bắc cực khi đó còn dày hơn và rộng hơn so với hiện tại, không khí lạnh bộc phát còn nghiêm trọng hơn so với mùa đông năm nay (năm 2014). Trong thời gian khá dài từ 50 đến 100 năm trở lại đây, điều được xác định là, theo các ghi chép lịch sử của các trạm khí tượng của Mỹ, tần xuất xuất hiện ghi chép về nhiệt độ thấp cực đoan đã giảm xuống. [24]
Giáo sư John Wallace, nhà khoa học khí hậu và viện sỹ của Viện khoa học hàn lâm Mỹ chỉ ra rằng, việc lập mối liên hệ giữa sự kiện thời tiết cực đoan và biến đổi khí hậu tuyệt không dễ dàng như chúng ta có thể thấy. Kết luận của thống kê phụ thuộc vào kích cỡ của mẫu số liệu. Cho dù về mặt thống kê cho thấy có liên quan rõ ràng (ví dụ như mối liên hệ giữa sự nóng lên của khí hậu và sóng nhiệt thì trong sự kiện càng cực đoan, mức độ đóng góp ảnh hưởng sự nóng lên toàn cầu đối với các hiện tượng dị thường quan sát được càng nhỏ. Nếu chúng ta có sự thấu hiểu đầy đủ đối với cơ chế dẫn đến sự liên quan của biến đổi khí hậu và các sự kiện thời tiết cực đoan, như vậy sự hạn chế của kích cỡ mẫu thống kê sẽ không là một vấn đề nghiêm trọng, nhưng không may là, chúng lại không phải như thế.
Tháng 11/2017, Steve Koonin, Phó Bộ trưởng khoa học Bộ Năng lượng Mỹ, Chủ nhiệm Trung tâm nghiên cứu phát triển và khoa học đô thị của Đại học New York, đã viết một bài bình luận có tựa đề “Báo cáo mới về tính dối trá của những vấn đề lên quan đến khí hậu” trên “The Wall Street Journal”, đã phê bình những lược bỏ miêu tả có tính đánh lạc hướng trong Báo cáo Đặc biệt về Khoa học Khí hậu của Chính phủ Mỹ đối với hiện tượng nước biển dâng cao, để làm gia tăng ý thức về thảm họa. [26]
Báo cáo đó chỉ ra rằng, từ năm 1993 đến nay, tốc độ nước biển dâng ước tính cao gấp 2 lần tốc độ dâng lên bình quân của thế kỷ 20. Nhưng báo cáo này đã bỏ qua không đề cập tới tỷ lệ dâng lên của nước biển những năm gần đây là bằng với thời điểm đầu thế kỷ 20, khi đó ảnh hưởng của hoạt động của con người đối với môi trường rất ít, đây chính là cách đánh lạc hướng bằng cách lược bỏ. Bản tóm tắt chấp hành của báo cáo tuyên bố, từ giữa những năm 1960 đến nay, các sóng nhiệt ở nước Mỹ trở nên ngày càng phổ biến. Nhưng, những số liệu bị chôn giấu sâu trong báo cáo hiển thị rằng, sóng nhiệt hiện tại không nhiều hơn so với những năm 1900. Thủ pháp này cũng xuất hiện trong Đánh giá Khí hậu Toàn quốc năm 2014 của Chính phủ Mỹ. Bản đánh giá đó nhấn mạnh vào sự gia tăng cường độ bão sau những năm 1980 mà không thảo luận trên những ghi chép trong thời gian dài hơn. Cục Quản lý Khí quyển và Hải dương Quốc gia của Mỹ gần đây đã cho biết, nó không thể phát hiện được con người có bất cứ ảnh hưởng gì đối với bão. [27]
Trên thực tế, những năm mà sóng nhiệt xuất hiện nhiều là những năm 30 của thế kỷ 20, mà không phải trong thế kỷ 21. Chỉ số về sóng nhiệt của Sở Bảo vệ Môi trường Mỹ đã cho thấy, vào thời điểm đó có tới 40% số năm chỉ số sóng nhiệt vượt quá 0.45, nhưng những năm nóng nhất của thế kỷ 21 chỉ số này cũng không quá 0.3. [28] Nhưng thời điểm đó tổng lượng khí thải nhà kính do con người thải ra không đến 10% tổng lượng khí thải nhà kính tích lũy ngày nay. [29]
Giáo sư Mike Hulme nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu Tyndall của nước Anh từng viết bài phê bình việc chủ nghĩa bảo vệ môi trường đã tạo ra ý thức về thảm họa của biến đổi khí hậu cho giới truyền thông, những nhà khoa học và giới chính khách: “Trong vài năm gần đây, ở đất nước này đã xuất hiện một loại hiện tượng môi trường mới –– hiện tượng biến đổi khí hậu ‘mang tính thảm họa’. Có vẻ như tựa đề chỉ viết vỏn vẹn “biến đổi khí hậu” thì sẽ không thể hiện ra tính gay go, vì vậy hiện tại nó cần phải là “mang tính thảm họa” thì mới có thể nhận được sự chú ý.…… Tại sao không chỉ vỏn vẹn là những nhà hoạt động chủ nghĩa bảo vệ môi trường, mà còn có những khoa học gia và chính trị gia công khai mang những từ ngữ hoảng sợ, khủng bố và thảm họa trộn lẫn với những hiện thực vật lý về biến đổi khí hậu có thể quan sát được, mà cố tình bỏ qua những điều kiện và phạm vi dự đoán khoa học xung quanh?” [30]
Nhà khoa học quá cố Stephen H.Schneider là một người khởi xướng “đồng thuận” lý luận khí hậu, từng là tổ trưởng Tổ Làm việc Thứ 2 của Báo cáo Bình luận thứ 3 của IPCC. Ông thẳng thắn trả lời một phần nghi vấn của Giáo sư Mike Hulme rằng: “Chúng tôi cần một số hỗ trợ rộng rãi để thu hút được trí tưởng tượng của công chúng. Đương nhiên, điều này đòi hỏi cần truyền thông đưa tin trên quy mô lớn. Vì thế chúng tôi cần thổi phồng tình cảnh để khiến người ta kinh sợ, thuật lại một cách đơn giản hóa và kịch tích, hơn nữa gần như không đề cập đến bất cứ nghi vấn nào chúng tôi có thể có.” Ông ta cho rằng điều này dẫn đến một tình huống khó xử về đạo đức mà các nhà khoa học phải lựa chọn giữa “sự hiệu quả” và “sự thành thực”, mặc dù ông ta hy vọng có thể vẹn cả đôi đường. [31]
Ma quỷ muốn hủy con người, tuyên truyền rầm rộ về thảm họa khí hậu không chỉ đặt nền móng cho việc xây dựng một chính phủ toàn cầu, mà đồng thời cũng làm xấu đạo đức học thuật của giới khoa học. Khoa học khí hậu là ngành khoa học non trẻ mới có mấy chục năm lịch sử, coi lý luận chưa thuyết phục về sự nóng lên toàn cầu là sự thực, thông qua giới truyền thông tuyên truyền mà che đậy tính không chắc chắn của khoa học, thông qua sự thiên vị của các quỹ chính phủ, liên hợp tập san học thuật và cơ cấu học thuật để đẩy những tiếng nói trái chiều ra bên rìa, trong quá trình xây dựng và củng cố của cái gọi là “đồng thuận” đã bộc lộ Gene “đấu” và “hận” của ma quỷ cộng sản. Đồng thời với việc ma quỷ xác lập “đồng thuận” trong các nhà khoa học, lại thông qua những chính trị gia và giới truyền thông chịu ảnh hưởng của nó để dán lên cho “đồng thuận” về thảm họa khí hậu một nhãn dán là “đã được khoa học chứng minh”, biến nó trở thành giáo điều không thể bị thách thức rồi mở rộng ra trên toàn cầu, tiến thêm một bước để thống nhất tư tưởng, đồng thời đưa quan niệm thiện ác biến dị vào trong tâm con người. Phần trên đã nói về việc hành vi tội phạm của thành viên nhóm Hòa bình Xanh của Anh được hợp pháp hóa, dựa trên “đồng thuận” về “khí thải nhà kính dẫn đến thảm họa khí hậu”. Những chính sách và quy định pháp luật dùng loại giáo điều này làm cơ sở sẽ mang tới sự hỗn loạn cho trật tự chính thường của thế giới. Dùng các lý do để phá nát “thế giới cũ” là thủ đoạn thường dùng của ma quỷ. Những thứ này đều là nền móng mở đường để cho ma quỷ dùng việc “Cứu lấy trái đất và cứu lấy nhân loại” để xuất hiện như một vị “cứu thế chủ” giả.
3. Chủ nghĩa bảo vệ môi trường đang trở thành một hình thái khác của chủ nghĩa cộng sản
Trong vài chục năm gần đây, thuận theo thế lực của chủ nghĩa cộng sản bị suy yếu và những vấn đề trong kinh tế, chính trị ở các quốc gia đảng cộng sản nắm quyền bị bộc lộ ra, chủ nghĩa bảo vệ môi trường đã trở thành một loại hình thức khác của chủ nghĩa cộng sản, bị tà linh lợi dụng để thực hiện các mưu đồ của nó trên phạm vi toàn thế giới.
3.1 Xâm nhập vào chính trị, xây dựng chính phủ toàn cầu
Thủ đoạn quan trọng của tà linh cộng sản để khống chế con người là chính phủ tước đoạt tự do và tài sản của con người, không ngừng khuếch đại quyền lực cưỡng chế của chính phủ. Điều này rất khó để thực hiện ở các quốc gia phương Tây, nhưng chủ nghĩa bảo vệ môi trường khiến cho tà linh đã có một liều thuốc mê rất tốt, bằng lý do đoàng hoàng bảo vệ môi trường, tự do của con người có thể dễ dàng bị tước đoạt.
Đầu tiên, lợi dụng hình thái ý thức chủ nghĩa bảo vệ môi trường tiến hành phân phối lại tài sản. Các quốc gia cộng sản truyền thống thông qua phương thức cách mạng để cưỡng chế tiến hành tái phân phối lại tài sản, do thời thế đổi thay, rất khó để có thể bổn cũ soạn lại, vì thế những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường đã chọn dùng sách lược đường vòng, dùng danh nghĩa thảm họa môi trường toàn cầu khiến cho mọi người chủ động vứt bỏ tài sản tư hữu và tự do cá nhân. Hiệp hội Những người bạn của Trái đất tuyên bố “Hạt nhân của sách lược ứng phó với biến đổi khí hậu cần phải là tái phân phối tài nguyên và tài sản.” [32] Mayer Hillman nhà tư tưởng bảo vệ môi trường nổi tiếng tuyên bố: “Chế độ phân phối là phương pháp duy nhất để làm dừng lại sự biến đổi khí hậu đang mất kiểm soát”, “Chế độ phân phối lượng khí thải CO2 cần phải được thực thi, dù mọi người có ủng hộ hay không”, bởi vì “Bảo vệ trái đất, để cho tất cả các sinh vật trên trái đất tránh khỏi diệt vong, so với mục tiêu này, mục tiêu dân chủ gần như đã không có chút giá trị nào cả”. [33] Trong “trận chiến” ứng phó với biến đổi khí hậu, Nước Anh lần đầu tiên đã đề xuất khái niệm “Chứng khoán định lượng các bon cá nhân”. Một nhà khoa học người Anh đã bày tỏ, điều này “dẫn đến loại tiền tệ thứ hai, mỗi cá nhân đều có một lượng được phân phối giống nhau. Kiểu phân phối lại tài sản này [Ép buộc người giàu] phải mua lại hạn mức các bon từ người nghèo”. [34] Những người từng sống tại Trung quốc cộng sản hoặc Liên-Xô có thể dễ dàng nhìn ra, loại chế độ phân phối định lượng các-bon này là một loại phương thức khác của việc thực hiện chế độ cực quyền, đây chính là giống như một dạng phiếu dầu, phiếu gạo, phiếu vải của Trung Cộng phân phối những năm trước. Dùng loại phương thức này, một mặt đã thực hiện phân phối lại tài sản, mặt khác ban cho chính phủ trung ương quyền chi phối tối cao đối với tài sản và tự do.
Thứ hai, lợi dụng hình thái ý thức chủ nghĩa bảo vệ môi trường để hạn chế tự do cá nhân. Ở phương Tây có truyền thống tự do lâu dài, muốn để cho con người chủ động vứt bỏ tự do cá nhân, tiếp nhận rất nhiều hạn chế đối với sinh hoạt cá nhân, quả thực là rất khó. Vì thế cần phải nghĩ ra chuyện một thảm họa to lớn sẽ đến, để khiến mọi người vứt bỏ quyền lợi tự do. “Sự nóng lên toàn cầu” và “ngày tận thế của trái đất” liền trở thành lựa chọn tốt nhất của những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường. “Liên minh ý thức các-bon” của Australia đã đề xuất một danh sách lệnh cấm, danh sách lệnh cấm này dùng danh nghĩa sự nóng lên toàn cầu để cưỡng ép mọi người thay đổi hành vi:
Cấm dùng bếp lò và lò sưởi, cấm dùng đèn sợi đốt, cấm dùng nước đóng chai, cấm xe cá nhân ở một số nơi, cấm TV Plasma, cấm xây dựng sân bay mới, cấm mở rộng sân bay, cấm dùng trạng thái chờ ở thiết bị điện, cấm phát điện bằng than đá, cấm hệ thống nước nóng chạy bằng điện, cấm lái xe đi hưởng kỳ nghỉ, cấm [nghỉ] 3 ngày cuối tuần, thu thuế sinh đẻ, thu thuế với xe ô tô loại lớn, thu thuế bãi đỗ xe siêu thị, thu thuế rác thải, thu thế nếu có nhà ở thứ hai, thu thế xe ô tô thứ hai, thu thuế chuyến bay vào kỳ nghỉ, thu thuế điện để hỗ trợ cho “điện” mặt trời, thu thuế các cửa hàng trưng bày ô tô loại lớn, thu thuế sinh thái đối với ô tô vào thành phố, phải được cho phép thì mới được lái ô tô ra khỏi phạm vi thành phố, thu hẹp phạm vi lựa chọn các thiết bị điện, phân phối hạn mức tín dụng các-bon cho mỗi cá nhân, quy định tiêu chuẩn hiệu suất nhiên liệu, nghiên cứu làm thế nào để giảm thiểu lượng khí mê-tan do nai sừng tấm Na Uy thải ra, loại bỏ vạch kẻ đường trắng trên đường để khiến cho tài xế lái xe cẩn thận hơn. [35]
Thứ ba, lợi dụng hình thái ý thức chủ nghĩa bảo vệ môi trường để khuếch đại quyền hạn và biên chế của chính phủ. Các quốc gia phương tây không những có cơ cấu Cục bảo vệ môi trường khổng lồ, mà còn bắt đầu lợi dụng cái cớ bảo vệ môi trường để thiết lập một cơ quan mới trong chính phủ, mở rộng quyền hạn của các cơ quan hiện có. Bất cứ cơ cấu nào đều có khuynh hướng “duy trì bản thân”, “khuếch trương bản thân” và “phát triển bản thân”, những cơ quan bảo vệ môi trường này cũng không ngoại lệ. Nó lợi dụng thậm chí là lạm dụng quyền lực trong tay, để phát tán luận điệu đáng sợ về thảm hoạ môi trường đến công chúng xã hội, dùng rất nhiều kinh phí hành chính, để củng cố vị trí của bản thân trong thể chế chính trị, người trả tiền cuối cùng cũng chỉ có thể là người nộp thuế. Thành phố San Francisco, Mỹ đã thiết lập chức danh Trưởng Hành chính Khí hậu Thành phố với khoản lương chi trả hàng năm 160.000 USD, khu nghèo nhất của London(London Borough of Tower Hamlets) có 58 nhân viên có liên quan đến biến đổi khí hậu. [36] Điều này hết sức giống với cơ chế các trường đại học và các công ty thiết lập vị trí quan chức “đa nguyên hóa” (“diversity” officers).
Thứ tư, lợi dụng hình thái ý thức chủ nghĩa bảo vệ môi trường để cổ xúy cho lý thuyết chế độ dân chủ lỗi thời, chờ đợi cơ hội để kiến lập chính phủ cực quyền siêu quốc gia, thậm chí toàn cầu. Những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường tuyên bố, chế độ dân chủ không thể ứng phó với khủng hoảng môi trường xảy ra bất ngờ, vì thế nên không thể ứng phó hiệu quả với khủng hoảng, cần phải tiếp thu hoặc tối thiểu là tiếp thu một bộ phận của chế độ cực quyền hoặc chế độ uy quyền (authoritarianism). [37] Tác giả Janet Biehl đã tổng kết chính xác loại tâm thái này như sau: “Khủng hoảng sinh thái chỉ có thể được giải quyết thông qua phương thức cực quyền”, “cần một loại ‘chuyên chế sinh thái’”, vì thế không có bất cứ xã hội tự do nào tự nguyện tiếp thu “Nghị trình xanh”. [38] Học giả người Mỹ Paul Ehrlich một trong những người đặt nền móng cho chủ nghĩa bảo vệ môi trường đã kêu gọi trong một cuốn sách “Làm thế nào để là người may mắn sống sót – Kế hoạch giải cứu phi thuyền vũ trụ Trái Đất” như sau: (1) các quốc gia quá phát triển và quốc gia kém phát triển đều phải thực thi chế độ khống chế dân số; (2) các quốc gia quá phát triển cần phải quay trở lại mốc ban đầu (cần phải “xóa bỏ những tiến bộ của họ”); (3) các quốc gia kém phát triển cần phải bán phát triển; (4) cần phải kiến lập trật tự quy tắc để giám sát và điều tiết hệ thống thế giới, liên tục nỗ lực duy trì trạng thái cân bằng tối ưu giữa dân số, tài nguyên và môi trường. [39] Trên thực tế, ngoại trừ một chính phủ cực quyền toàn cầu, bất cứ chính phủ và tổ chức nào cũng đều không thể có quyền lực lớn đến thế. Những thứ này đã lợi dụng danh nghĩa bảo vệ môi trường để cổ xúy kiến lập chính phủ cực quyền toàn cầu.
Thứ năm, lợi dụng hình thái ý thức chủ nghĩa bảo vệ môi trường cổ xúy lý luận rằng chế độ của Trung Cộng là ưu việt, ca tụng cho cực quyền cộng sản. Do sự gia tăng dân số có nghĩa là càng sử dụng nhiều tài nguyên, thải ra càng nhiều Cac-bon, tạo ra càng nhiều rác thải, nên những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường cổ xúy khống chế dân số thậm chí là giảm thiểu dân số. Vì thế chính sách kế hoạch hóa dân số của Trung cộng nhận được nhiều sự tâng bốc mạnh mẽ của những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường Phương Tây. Theo báo cáo của Báo Reuters, chính sách một con được thực thi từ đầu những năm 1980 ở Trung Quốc khiến dân được khống chế ở mức 1,3 tỷ, giả thuyết rằng nếu không có chính sách này, thì dân số Trung quốc sẽ đạt đến 1,6 tỷ người. Tác giả bài viết kết luận, Trung cộng đã vô tình cống hiến cho sự nghiệp giảm các-bon trên toàn cầu. Tác giả đã bỏ qua việc hàng trăm triệu sinh linh trẻ em, cha mẹ và người nhà của các em đã phải chịu những khổ nạn cự đại.
Một vấn đề lớn nhất trong vấn đề môi trường là vấn đề ô nhiễm môi trường, bao gồm ô nhiễm không khí, và ô nhiễm nguồn nước v.v. Mô hình kinh tế ô nhiễm và hao phí năng lượng một cách cao kỳ dị của Trung Cộng sớm đã biến Trung Quốc thành nơi ô nhiễm nhất trên thế giới. Trung Quốc là quốc gia có số thành phố bị ô nhiễm không khí nhiều nhất, phần lớn các dòng sông ở Trung Quốc đã không thể dùng để uống, bão cát của Trung Quốc đã vượt biển bay tới Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ. Theo lý thuyết, những người bảo vệ môi trường chân chính nhất định sẽ chĩa thẳng mũi giáo vào Trung cộng. Kỳ lạ là, rất nhiều những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường lại hết sức tán tụng cho Trung Cộng, thậm chí xem nó là hy vọng cho sự nghiệp bảo vệ môi trường. Những bài báo về bảo vệ môi trường những năm gần đây chiếm rất nhiều trang trên tờ báo mạng của đảng cộng sản Mỹ là “Nhân dân thế giới”. Điều khiến người ta kinh ngạc là, luận điệu chính của bài báo bảo vệ môi trường của tờ báo này là chính sách môi trường của Chính phủ Tổng thống Trump sẽ phá hủy quốc gia này thậm chí là toàn thế giới, nhưng cứu tinh của người dân trái đất lại là –– Trung Cộng! [40] Điều này chỉ có thể nói là sự thao túng của tà linh cộng sản ở đằng sau.
Klaus, Nhà kinh tế học và là Nguyên Tổng thống Czech, đã sắc bén chỉ ra trong cuốn sách “Bạo chính bảo vệ môi trường” rằng: “Chủ nghĩa bảo vệ môi trường là một loại âm mưu cấp tiến không màng đến hậu quả (dùng việc hà khắc hạn chế tự do cá nhân và đánh đổi sinh mệnh của con người) để thay đổi sự vận động của thế giới. Mưu đồ của nó là muốn cải tạo con người, cải tạo hành vi của nhân loại, cải tạo hệ thống giá trị và kết cấu của xã hội –– nói một cách đơn giản, là muốn cải tạo tất cả mọi thứ”, “Cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, thứ gây ra uy hiếp lớn nhất đối với tự do, dân chủ, kinh tế thị trường và phồn vinh xã hội đã không phải là chủ nghĩa xã hội, mà là hình thái ý thức của vận động chính trị chủ nghĩa bảo vệ môi trường đầy dã tâm, tự đại và trắng trợn.” [41] Ông cho rằng, thái độ với tự nhiên của những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường và thái độ đối với vấn đề kinh tế của những người theo chủ nghĩa Marx là không mưu mà hợp (không hẹn mà nên): “Cả hai đều nhằm mục đích thay thế sự diễn hóa tự phát tự do của con người và thế giới bằng cái gọi là kế hoạch phát triển thế giới tối ưu, tập trung chi phối và ‘mang tính toàn cầu’. Loại phương pháp luận này, giống như tiền lệ chủ nghĩa cộng sản vậy, là theo hình thức của một Utopia, kết quả của những thứ đó mang tới chỉ có thể trái ngược một trời một vực với mục đích đề ra ban đầu. Cùng với các loại Utopia khác, loại Utopia này cũng là chỉ có thể lấy việc hạn chế tự do và dùng một số ít người áp đảo [khuất phục] cưỡi lên đám đông quần chúng để thực thi.” [42] Ông phê bình về chủ nghĩa bảo vệ môi trường là “cổ xúy địa cầu và tự nhiên, họ lấy danh nghĩa là bảo vệ môi trường—tương tự như những người theo chủ nghĩa Marx thuở sơ khai —mưu đồ thay thế tiến trình diễn biến tự phát và tự do của nhân loại bằng một kế hoạch tập trung trên toàn thế giới mang tính trung ương (hiện tại là mang tính toàn cầu)”. [43] Klaus kiên quyết phản đối ai đó mưu đồ lợi dụng bảo vệ môi trường để xây dựng một đại chính phủ quốc gia cho đến chính phủ toàn cầu để nô dịch đại chúng.
3.2 Tấn công chủ nghĩa tư bản
Một trong những mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản là lật đổ chủ nghĩa tư bản, còn chủ nghĩa bảo vệ môi trường coi chủ nghĩa tư bản là thiên địch phá hoại môi trường, vì thế chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa bảo vệ môi trường đã có chung một kẻ địch –– chủ nghĩa tư bản. Vì thế sau khi phong trào công nhân của chủ nghĩa cộng sản ở các quốc gia phát triển phương Tây gặp khó khăn, rất tự nhiên nó liền chuyển sang lá cờ chủ nghĩa bảo vệ môi trường, khiến hoạt động bảo vệ môi trường chính thường của nhân loại trở thành một chính sách trọng yếu nhất để đánh bại chủ nghĩa tư bản.
Lý luận ban đầu của chủ nghĩa cộng sản từng vẽ ra một utopia tươi đẹp, cũng chính là “thiên đường nhân gian”, để kích động người nghèo đi làm cách mạng lật đổ chế độ xã hội hiện tại. Còn loại chủ nghĩa cộng sản dùng chủ nghĩa bảo vệ môi trường làm bình phong là một loại thủ pháp tương tự, nhưng mà, viễn cảnh được vẽ lên lại hoàn toàn ngược lại, không phải là utopia tươi đẹp, mà là “ một utopia ngược” rất đáng sợ, một “địa ngục nhân gian”: Sau 100 năm nữa do sự nóng lên của trái đất, ở đâu cũng là núi lở, hạn hán, sóng thần, hồng thủy, sóng nhiệt nhân loại đang đối mặt với nguy cơ sống còn. Lần kích động này không nhắm đến người nghèo, mà là muốn những người giàu vứt bỏ phương thức sinh hoạt vốn có. Ai sẽ tự nguyện thay đổi cuộc sống thoải mái hoặc thói quen sinh hoạt đây? Điều đó phải dựa vào chính phủ, một chính phủ thì đương nhiên không đủ, mà chính là dựa vào Liên Hợp Quốc phải dựa vào chính phủ thế giới. Thế vẫn chưa đủ, thì tuyên truyền mạnh hơn về thảm họa sinh thái tương lai, tạo ra những khủng hoảng sinh thái, từ đó tác động đến dân chúng và chính phủ, khiến chính phủ cưỡng chế thực hiện chính sách bảo vệ môi trường, đạt được mục đích phá hủy chủ nghĩa tư bản, thực hiện chủ nghĩa cộng sản.
Theo lý luận ban đầu của chủ nghĩa cộng sản thì sau khi đoạt được chính quyền, một là cướp đoạt tài sản của người giàu, gọi là giết giàu cứu nghèo, thực chất người nghèo vẫn là người nghèo, tài sản đều bị tham quan lấy đi; thứ hai là thiết lập kinh tế quốc doanh, tiêu diệt chế độ tư hữu, phá hủy kinh tế, đẩy dân chúng vào cảnh lầm than. Chúng ta hãy xem xét cách thức thực hiện của chủ nghĩa bảo vệ môi trường. Thứ nhất là muốn nước giàu bỏ tiền giúp đỡ nước nghèo, tài sản được phân phối lại, thực chất nước nghèo vẫn là nước nghèo, tiền giúp đỡ nước nghèo thông thường đều bị quan chức tham nhũng của nước nghèo lấy đi; thứ hai là thiết lập đại chính phủ, dùng mệnh lệnh hành chính thay thế cơ chế thị trường, dùng các loại chính sách bảo vệ môi trường hà khắc để kìm hãm chủ nghĩa tư bản, khiến cho nhà máy phải đóng cửa hoặc phải di chuyển ra nước ngoài, khiến kinh tế của các nước phát triển bị tụt dốc, từ mặt kinh tế làm suy nhược chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa bảo vệ môi trường trên phương diện phá hủy chủ nghĩa tư bản quả thực là rất giống với lý luận của chủ nghĩa cộng sản, nói thẳng ra là, nó cũng chính là chủ nghĩa cộng sản dùng bộ mặt khác để phá rối ở thế giới con người.
Trọng điểm của chủ nghĩa bảo vệ môi trường chính là thổi phồng thảm họa tương lai, dùng sự sợ hãi để cầm tù chính phủ và người dân ngày nay. Những người dốc sức để tuyên truyền loại khủng hoảng tận thế này, bản thân họ thì sống cuộc sống xa xỉ tiêu tốn nhiều năng lượng và thải nhiều các bon, có thể thấy tự bản thân họ cũng tuyệt đối không cho rằng đại nạn sẽ xảy ra.
Có thể thấy được, vì muốn lợi dụng khủng hoảng môi trường, đặc biệt lợi dụng “kẻ địch chung là sự nóng lên toàn cầu” để tập hợp các loại thế lực phản đối chủ nghĩa tư bản, vì thế, nhấn mạnh và thổi phồng khủng hoảng đã trở thành điều tất nhiên phải làm.
Phương pháp đơn giản nhất là khiến con người sinh ra nỗi sợ hãi mạnh mẽ đối với các nguồn tài nguyên năng lượng giá rẻ nhất, đó chính là các loại năng lượng hóa thạch như dầu mỏ, than đá, khí đốt cho đến cả năng lượng hạt nhân. Hàng chục năm trước họ đã từng thành công khi khiến con người sinh ra nỗi sợ hãi đối với năng lượng hạt nhân, hiện tại họ lại nghĩ ra biện pháp khiến con người sợ hãi năng lượng hóa thạch, biện pháp chính là tuyên bố năng lượng hóa thạch sẽ gây ra thảm họa nóng lên toàn cầu.
Điều lệ bảo vệ môi trường hà khắc trở thành thủ đoạn quan trọng để đánh đổ chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là kinh tế chủ nghĩa tư bản, trở thành “sát thủ hủy việc làm [của người dân] ”. Kế hoạch thúc đẩy màu xanh, kế hoạch nguồn năng lượng sạch, quy chế của những nhà máy phát điện mới, quy định pháp luật giao thông nghiêm ngặt hơn, “Thỏa thuận chung Paris” v.v., đều là tiến hành trên danh nghĩa ngăn ngừa sự nóng lên toàn cầu. Tuy thế, trên thực tế khoa học khí hậu vẫn chưa xác định rằng tác nhân chủ yếu của sự nóng lên là do con người, rồi nhất định sẽ dẫn đến thảm họa. Nếu nguyên nhân tự nhiên dẫn đến biến đổi khí hậu, thì tất cả những chính sách này chỉ có tác dụng gây ra những trở ngại cho việc phát triển kinh tế, nó không có chút lợi ích nào với con người.
Dưới sự thúc đẩy của chủ nghĩa bảo vệ môi trường, người ta một mực nâng cao những tiêu chuẩn khí thải xe hơi, một mực hạn chế những vật dụng bị cấm sử dụng mới và những sản phẩm hóa học mới v.v.theo cách không dựa trên căn cứ khoa học, một mực nâng cao chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận, và sẽ có một lượng tương ứng công nhân thất nghiệp, hoặc cơ hội việc làm sẽ chuyển dịch từ các quốc gia phát triển đến các quốc gia trung bình để hạ thấp chi phí sản xuất, để duy trì lợi nhuận. Cho dù những người ủng hộ chủ nghĩa bảo vệ môi trường cũng thừa nhận sẽ gia tăng hiệu suất đốt của động cơ lên đến 87.71 Km/Galon vào năm 2025, cũng tối đa có thể khiến biên độ tăng nhiệt độ của khí hậu giảm bớt 0.02°C vào năm 2100, [44] và gần như không có tác dụng đối với cái gọi là hạ thấp hiệu ứng nhà kính. Kết quả của các loại lệnh hạn chế lại là khiến hàng triệu công nhân mất việc lại, phá hoại nặng nề ngành công nghiệp chế tạo của các quốc gia phương Tây, năng lực sáng tạo phát triển khoa học kỹ thuật mới và năng lực cạnh tranh quốc tế của các quốc gia phương tây.
Trên cơ bản các ngành công nghiệp mới của bảo vệ môi trường là do chính phủ trợ cấp và thúc đẩy, không phải là những ngành công nghiệp được sinh ra do vận động của thị trường. Trong tình trạng nghiên cứu phát triển chưa có sự đột phá mà đã sản xuất quy mô lớn, thực tiễn đã chứng minh hiệu quả rất không tốt, nhà máy rất khó tồn tại, càng không nói đến việc hấp dẫn nghề nghiệp. Do bối cảnh toàn cầu hóa, nhà máy không phải là chuyển từ [quận] huyện này đến [quận] huyện khác, mà là chuyển đến một quốc gia khác. Từ góc độ quốc gia mà nói, tổn thất về việc làm là tổn thất vô ích.
Những người vận động bảo vệ môi trường dốc sức ủng hộ năng lượng xanh, dấy lên một cuộc đại nhảy vọt về phát điện năng lượng mặt trời và năng lượng gió, nhưng ô nhiễm gây ra từ bản thân việc chế tạo ra năng lượng sạch lại bị che dấu hoặc bị coi nhẹ. Sản phẩm phụ silic tetraclorua trong quá trình sản xuất tấm pin năng lượng mặt trời là một loại chất cực độc, sẽ gây ra tác hại rất lớn đối với môi trường, “vùng đất người ta đổ hoặc chôn những chất thải này sẽ bị cằn cỗi, cây cỏ không thể sinh trưởng được …… nó như là thuốc nổ –– nó có độc, là chất ô nhiễm, con người vĩnh viễn không được chạm đến nó,” dẫn lời một chuyên gia khoa học tài nguyên trên tờ “Washington Post”. [45] Đồng thời trong quá trình chế tạo pin năng lượng mặt trời sẽ tiêu hao lượng lớn năng lượng truyền thống, bao gồm cả than đá và dầu mỏ, cũng tạo ra ô nhiễm lớn, có thể nói năng lượng xanh để lại không phải là xanh mà là ô nhiễm.
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, Mỹ hy vọng rằng sẽ mang ngành công nghiệp chế tạo ở nước ngoài về lại Mỹ. Không những chính sách thuế thiếu hấp dẫn, mà chính sách bảo vệ môi trường cũng là một nhân tố quan trọng cản trở ngành công nghiệp chế tạo quay trở lại. Foxconn, Công ty viễn thông hàng đầu của Đài Loan muốn đầu tư nhà máy sản xuất ở Mỹ, mà đàm phán mấy năm không có kết quả. Nhưng Foxconn đã xây dựng một nhà máy có quy mô tương tự ở Quảng Châu Trung Quốc, tổng thời gian từ khi bắt đầu đàm phán đến khi khởi công chỉ mất có 50 ngày. Tổng giám đốc công ty này lên tiếng rằng Mỹ nên đến Trung Quốc học hỏi và nghiên cứu. [46] Sau khi Tổng Thống Trump vào nhà trắng, đã có một loạt những hành động để hấp dẫn đầu tư nước ngoài, tháo gỡ những trói buộc ở phương diện bảo vệ môi trường cho các nhà máy. Trong bầu không khí như vậy, ngoại trừ ưu đãi thuế, chính phủ bang Wisconsin đã miễn trừ các biện pháp kiểm soát môi trường liên quan khác như tiêu chuẩn cao về khói, vùng đất ngập nước v.v, để cho phép Foxconn khi đầu tư vào Mỹ có thể đặt chân ở bang này.
Theo “Thỏa thuận chung Paris”, đến trước năm 2025, các quốc gia phát triển phải cung cấp cho các quốc gia đang phát triển khoản viện trợ tài chính khoảng 100 tỷ USD mỗi năm, để trợ giúp các nước này phát triển và cải tiến kết cấu năng lượng và kỹ thuật công nghiệp hóa. Nhưng trong hơn 100 nước ký tên vào Nghị định thư, một mình Mỹ chịu đến 75% chi phí hàng năm tương đương khoảng 75 tỷ USD. Đến năm 2025, Mỹ cần phải giảm lượng khí thải nhà kính xuống ít nhất 26% đến 28% lượng khí thải của năm 2005, tương đương mỗi năm giảm khoảng 1,6 tỷ tấn lượng khí thải. Đối với Trung Quốc, đất nước đã vượt qua Mỹ trở thành quốc gia ô nhiễm nhất, Nghị định thư đặt mục tiêu cho phép lượng khí CO2 đạt đến mức đỉnh trước năm 2030 (có nghĩa là sau 2030 thì không được tăng mức CO2 nữa). [47] Tổng Thống Trump đã chỉ ra trong một buổi diễn giảng rằng: “Nếu tiếp tục tuân thủ ‘Thỏa thuận chung Paris’ và những hạn chế hà khắc khác mà nó gia tăng lên nước Mỹ trên phương diện năng lượng, theo thống kê của hiệp hội nghiên cứu kinh tế quốc gia, đến năm 2025 nước Mỹ sẽ mất đi 2,7 triệu việc làm”, “Báo cáo điều tra này cho thấy, đến năm 2040, việc tuân thủ các cam kết của chính phủ trước đó sẽ dẫn đến sự sụt giảm sản lượng đáng kể trong các ngành công nghiệp sau: Công nghiệp giấy giảm 12%, Xi măng giảm 23%, sắt thép giảm 38%, than … giảm 86%, khí tự nhiên giảm 31%. Khi đó, Tổng sản lượng quốc dân (GDP) sẽ giảm tới 3000 tỷ USD, đồng thời mất đi 6,5 triệu việc làm trong lĩnh vực công nghiệp, và thu nhập bình quân hộ gia đình sẽ giảm 7000 USD, thậm chí là nhiều hơn.” [48] Dùng danh nghĩa bảo vệ môi trường, để tấn công vào công nghiệp, kinh tế, kỹ thuật của phương Tây, quy định pháp luật và hiệp định không hợp lý, những điều này chỉ khiến các quốc gia cộng sản có cơ hội lợi dụng để thực hiện ý đồ của mình. Điều này đặc biệt dẫn đến việc Mỹ, với vai trò cảnh sát quốc tế và thành trì cuối cùng của thế giới Phương Tây chống lại tà ác cộng sản, không thể thực hiện ý chỉ của Thần, chỉ có thể nhìn tà ác lên ngôi. Đây thực sự chính là kết quả tà linh chờ đợi.
Chúng tôi không phủ định bảo vệ môi trường. Môi trường cần phải được bảo vệ, nhưng, mục đích của bảo vệ môi trường là vì con người, con người mang hình tượng của Thần mới là anh linh của vạn vật. Bảo vệ môi trường quá mức, bảo vệ môi trường quá độ, dùng con người làm vật hy sinh để đánh đổi cho bảo vệ môi trường, là đã lọt vào mưu của tà linh. Bảo vệ môi trường cần phải có sự cân bằng, nhưng vận động bảo vệ môi trường hiện tại không ở điểm cân bằng, mà là được đẩy theo một hướng mà không có điểm dừng. Trong vận động bảo vệ môi trường quá độ và cực đoan này, chúng ta không hoài nghi rằng có rất nhiều những người hoạt động là xuất phát từ nguyện vọng lương thiện, nhưng cái đứng đằng sau yêu cầu chính phủ chỉ đạo mọi thứ, kỳ thực là bóng ma lấp ló của tà linh cộng sản.
3.3 Phát động cuộc tấn công truyền thông, áp chế tiếng nói bất đồng
Tháng 6/2009, Chương trình “Chào buổi sáng” của Đài ABC của Mỹ đã phát sóng một tập chương trình đặc biệt tưởng tượng về tương lai, dự đoán rất chấn động về sự ảnh hưởng mạnh mẽ của “nóng lên toàn cầu” trong tương lai 100 năm tới đối với trái đất và con người. Trong chương trình, một chuyên gia tuyên bố rằng năm 2015 mực nước biển sẽ dâng lên nhanh chóng, New York sẽ bị nước biển nhấn chìm; một người được phỏng vấn nói đến khi đó sẽ có “một trận hỏa hoạn dài đến hàng trăm dặm”; Một ga-lon sữa bò có giá lên tới 12.9USD; một ga-lon dầu có giá lên đến 9USD. Luận điệu khoa trương của họ khiến một người chủ trì chương trình đó đặt ra nghi vấn ngay tại chương trình rằng, tất cả những thứ này thực sự có khả năng xảy ra không?
Trên thực tế, có thể xảy ra hay không không phải là vấn đề chủ yếu mà giới truyền thông xem xét. “Ý thức thảm họa” là cây gậy chỉ huy của chủ nghĩa bảo vệ môi trường để khuấy động đại chúng, nhưng tính không chắc chắn và “ý thức thảm họa” là mâu thuẫn, những điều khoa học chưa có kết luận cuối cùng làm sao có thể tạo thành những cảm giác khủng hoảng của công chúng được? Thế là, chủ nghĩa bảo vệ môi trường lấy cờ hiệu là vì tương lai của toàn nhân loại, để áp chế những tiếng nói bất đồng, dùng danh nghĩa “đồng thuận khoa học” đạt thành “đồng thuận” toàn dân.
Tiến sỹ kinh tế người Đan Mạch Bjørn Lomborg đã viết trong tác phẩm nổi tiếng “Những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường bảo lưu thái độ hoài nghi”(The Skeptical Environmentalist: Measuring the Real State of the World), thừa nhận sự nóng lên của khí hậu, cũng thừa nhận sự nóng lên của khí hậu là hiện tượng do hoạt động của con người tạo nên. Nhưng ông cho rằng, do tính thích ứng của con người và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, vì vậy sẽ không xảy ra thảm họa. Do lập trường của ông có mâu thuẫn với giáo điều “con người gây ra sự nóng lên của khí hậu mang tính thảm họa” của nghủ nghĩa bảo vệ môi trường, ông đã chịu rất nhiều đả kích trong xã hội: Chủ tịch Ủy ban biến đổi khí hậu Liên Hợp Quốc so sánh Lomborg với Hitler, Ủy ban gian lận khoa học của Đan Mạch tiến hành thẩm định tác phẩm của ông, sau đó tuyên bố Lomborg vi phạm “gian lận khoa học” (nhưng sau đó điều tra của chính phủ đã chứng minh Lomborg là vô tội), những người phản đối ông mưu đồ lợi dụng phán quyết của Ủy ban gian lận khoa học, để hủy bỏ chức vụ Giám đốc Sở nghiên cứu Đánh giá Môi trường Đan Mạch của ông. Khi ông đứng tại điểm chờ tàu hỏa, mọi người thậm chí còn không muốn đứng cùng nhà chờ với ông, có một người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường thậm chí ném một miếng bánh về phía ông. [49]
Giáo sư Roy Spencer, nhà khoa học khí hậu và nguyên là khoa học gia của NASA đã tổng kết 14 chiêu tuyên truyền, bao gồm tạo ra khủng hoảng, cậy nhờ quyền lực, lợi dụng tâm lý đám đông, hứa giành chiến thắng, công kích cá nhân, kích động tình cảm, tạo tin đồn v.v. [50]
Năm 2006, Brendan O’Neill, Nhà báo người Anh đã viết một bài viết, tổng kết hiện tượng áp chế ngôn luận và tư tưởng đối với những người hoài nghi về lý luận thay đổi khí hậu xảy ra ở rất nhiều các quốc gia lúc bấy giờ. [51]
Ví dụ như, một nhà ngoại giao người Anh đã nói trong một phát biểu trước công chúng, nên đối xử với những người hoài nghi lý luận biến đổi khí hậu giống như đối xử với phần tử khủng bố, truyền thông không nên cho họ chỗ để phát biểu ý kiến. O’Neill chỉ ra rằng, người hoài nghi lý luận biến đổi khí hậu bị chụp mũ là “người phủ nhận”. Bao gồm một nhóm người rất rộng, từ những người thừa nhận sự nóng lên của khí hậu nhưng cho rằng chúng ta có thể ứng phó, đến những người hoàn toàn phủ nhận bất cứ sự nóng lên nào. Những từ này có sức sát thương rất lớn. Giáo Sư tiếng Anh đã về hưu của trường Đại học Edinburgh-Charles Jones chỉ ra rằng, cái mũ “người phủ nhận” này là muốn xếp tất cả những người có thái độ hoài nghi và người phủ nhận thảm sát vào cùng một tiêu chuẩn đạo đức khiến người ta kinh tởm. Có một số người thậm chí còn tuyên bố coi người có thái độ hoài nghi đối với lý luận biến đổi khí hậu như là tòng phạm của cuộc đại thảm sát sắp xảy đến, tương lai họ sẽ bị xét xử như cuộc xét xử ở Nuremberg. Có một vị tác gia nổi tiếng của chủ nghĩa bảo vệ môi trường viết: “Chúng ta nên xét xử theo hình thức tội phạm chiến tranh đối với những tên khốn kia (những người hoài nghi lý luận nóng lên của khí hậu) –– xét xử về khí hậu tương tự như phiên tòa ở Nuremberg.” O’Neill bình luận rằng: “chúng ta thông thường chỉ nghe nói ở các quốc gia chuyên chế mới có việc định tội cho lời nói hành vi hoặc tư tưởng. …… Từ việc quy kết cho một nhóm người nào đó là yêu ma, miêu tả ngôn ngữ của họ là nguy hiểm và độc hại, đến yêu cầu thẩm tra nghiêm ngặt hơn nữa chỉ cách một bước ngắn ngủi.” [52] Phán đoán của Brendan O’Neill là chính xác, áp chế tự do tư tưởng chính là một trong những đặc trưng của ma quỷ cộng sản. Thực sự, đây chính là thủ đoạn của ma quỷ dùng để thay thế giá trị phổ quát mà con người dùng để nhận định thiện ác.
Một giáo sư thiên văn học của đại học Harvard đã công bố một luận văn, luận bàn về tác dụng của mặt trời trong những ghi chép lịch sử về nhiệt độ của trái đất trong quá khứ. Vì luận văn đã động chạm tới giáo điều “nhân loại là nguyên căn gây ra biến đổi khí hậu”, trang web của một chủ nghĩa bảo vệ môi trường nào đó đã gọi ông là mưu đồ thực hiện “thảm sát”, còn gọi những người bất đồng ý kiến khác gọi là “tội phạm nghiêm trọng”. [53]
Những ví dụ loại này nhiều vô số, một quan chức cao cấp của đoàn thể bảo vệ môi trường lớn đã cảnh cáo rằng, truyền thông nên cân nhắc kỹ trước khi đăng những phát ngôn của những người hoài nghi lý luận biến đổi khí hậu, “vì truyền nhiều những tin tức có tính gây lạc hướng kiểu như thế này sẽ gây ra tổn hại.” [54] Bộ trưởng Bộ Bảo vệ môi trường Anh nói trong một lần diễn giảng rằng, cũng giống như việc không cho phép các phần tử khủng bố xuất hiện trên truyền thông, những người hoài nghi lý luận nóng lên toàn cầu cũng sẽ không có quyền phát biểu ý kiến trên truyền thông. [55] Những tác gia của những chuyên mục chính của Úc đang bắt đầu xem xét khởi tố những “người phủ nhận” sự biến đổi khí hậu theo điều luật “tội phản nhân loại”. Tại một hội nghị thượng đỉnh có sự tham gia của các chính trị gia chủ chốt của Úc, trong đó có cả Thủ tướng Úc, đã có một đề nghị tước quyền công dân của những người vi phạm. Trong đó có một ý kiến là xét xuyệt công dân Úc một lần nữa, chỉ có những người chứng minh được bản thân là người “thân thiện với môi trường khí hậu” thì mới được cấp lại quyền công dân.[56]
Thậm chí ghê gớm hơn, có người thậm chí còn có ý dùng đến vũ khí pháp luật để chặn miệng những người phản đối giả thuyết nóng lên của khí hậu. Năm 2015, 20 người trong giới học thuật đã gửi thư đến Tổng Thống Mỹ và Bộ trưởng Tư pháp, yêu cầu dùng “Luật về chống tham nhũng và nhận hối lộ tổ chức” để điều tra những tổ chức và công ty có cách nhìn khác đối với vấn đề biến đổi khí hậu. Mong muốn thực sự của họ là dùng phương thức pháp luật để can thiệp vào tự do ngôn luận. [57]
Năm 2016, Bộ trưởng Tư pháp của một số bang bắt đầu hình thành một liên minh nhắm vào ngành năng lượng truyền thống, điều tra xem ngành này có “lừa dối các nhà đầu tư và đại chúng” hay không. Quỹ The Heritage Foundation chỉ ra rằng, việc buộc tội và điều tra đối với những người có cách nhìn bất đồng là vi phạm tu chính án thứ nhất của Hiến pháp Mỹ, trên thực tế là bóp chết quyền biện luận đối với những chính sách công trọng yếu. [58]
3.4 Thao túng các đoàn thể “dân chúng”, phát động cách mạng đường phố
Tà linh cộng sản rất biết cách lợi dụng các phong trào của con người thế gian để tụ tập thành viên, tổ chức thành bộ máy, để tạo ra sức ảnh hưởng đến quốc gia thậm chí là ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng đường phố là một trong những thủ đoạn thường dùng của những người theo chủ nghĩa cộng sản, những việc như lợi dụng tổ chức công đoàn bãi công v.v. là điều không phải hiếm gặp trong lịch sử. Rất nhiều tổ chức bảo vệ môi trường giương chiêu bài bảo vệ môi trường, dùng “đúng đắn chính trị” và “bảo vệ môi trường là tối cao” để tụ tập những người bảo vệ môi trường với số lượng khổng lồ và hình thành phong trào bảo vệ môi trường, từ đó thuyết phục và ép buộc chính phủ thậm chí là với tổ chức Liên Hợp Quốc để chế định và ép buộc thi hành những quy định pháp luật và hiệp định bất hợp lý, hoặc thậm chí là tạo ra các sự kiện bạo lực, để chặn miệng con người thế gian.
Theo nhân vật đại biểu cho phái cánh tả cấp tiến Alinsky từng đề xuất rõ rằng, cần phải giấu mục đích thực sự, dùng mục tiêu cục bộ hoặc mục tiêu mang tính tạm thời và mục tiêu có vẻ hợp lý hoặc vô hại để động viên một lượng lớn người hành động. Khi mà người ta đã thích ứng với biến động như thế này, rồi mới đưa họ đến một mục tiêu cấp tiến hơn để hành động thì sẽ khá dễ dàng hơn. “Nhớ kỹ: một khi tổ chức quần chúng được tổ chức xung quanh một vấn đề không thể tranh cãi — ví dụ như vấn đề ô nhiễm, thì quần chúng trong tổ chức được lập nên đó liền bắt đầu hành động. Từ ‘ô nhiễm’ đến ‘ô nhiễm chính trị’ tiếp đến ‘ô nhiễm lầu năm góc’, đó chỉ là những bước nhỏ tự nhiên. [59]
Ngày Trái đất lần đầu tiên năm 1970, có hơn 20 triệu người Mỹ tham gia hoạt động kháng nghị đường phố với chủ đề ngày Trái đất. Nhưng biện pháp ứng phó đối với môi trường ngày càng xấu đi lại là khống chế dân số. Vào thời điểm đó rất nhiều tổ chức cánh tả ở Mỹ đã quyết định “đi đến những nơi nhiều người sinh sống”, đã tham dự vận động bảo vệ môi trường, và coi chủ nghĩa xã hội như là một giải pháp khống chế tăng trưởng dân số.
Các đoàn thể cánh tả muôn hình vạn trạng lợi dụng vận động bảo vệ môi trường để hướng đến cách mạng đường phố. Ví dụ như, ở Mỹ có một cuộc “Vận động khí hậu nhân dân”, vừa nghe tên đã biết ngay là sản phẩm của đảng cộng sản, các tổ chức tham dự gồm có “Đảng cộng sản Mỹ”, “Chủ nghĩa xã hội hành động”, “Đảng cộng sản cách mạng Mỹ” của chủ nghĩa Mao, “Chủ nghĩa xã hội sinh thái”, “Công nhân chủ nghĩa xã hội”, “Chủ nghĩa xã hội kiểu khác”, “Chủ nghĩa xã hội dân chủ Mỹ”, “Chủ nghĩa xã hội tự do” v.v. Họ tổ chức ra “Mít-tinh khí hậu dân chủ”, “Diễu hành khí hậu dân chủ”. Biểu ngữ của mit-tinh là “Cải cách chế độ, chứ không thay đổi khí hậu”, “Chủ nghĩa tư bản đang giết chết nước Mỹ”, “Chủ nghĩa tư bản đang hủy hoại môi trường”, “Chủ nghĩa tư bản đang hủy hoại hành tinh”, “Chiến đấu vì tương lai xã hội chủ nghĩa”. [60]
Họ diễu hành ở rất nhiều thành phố lớn ở Mỹ trong đó có Washington DC, một biển cờ đỏ đại diện cho cực quyền cộng sản. [61] Thuận theo việc nhân tố màu đỏ của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản càng ngày càng nhiều làm lớn mạnh thế lực bảo vệ môi trường, thì “Hòa bình xanh” đã cũng đang biến thành cách mạng đỏ.
3.5 Tôn giáo mới của chủ nghĩa phản nhân bản
Tà linh cộng sản không chỉ bắt cóc chủ nghĩa bảo vệ môi trường để làm vận động chính trị, mà còn biến nó trở thành một loại tôn giáo mới, hơn nữa còn là một loại tôn giáo phản nhân bản.
Nhà văn người Mỹ Michael Crichton, tác giả của “Công viên kỷ Jura” đã biểu thị: Chủ nghĩa bảo vệ môi trường là một trong những tôn giáo có sức mạnh lớn nhất ở các nước phương Tây hiện nay. Ông cho rằng, Chủ nghĩa bảo vệ môi trường đã có đủ đặc trưng điển hình của tôn giáo, ví dụ như, sự đọa lạc của con người, mất đi ân điển, đi đến hủy diệt. Nó thiết lập một thiên đường nguyên sơ, một trạng thái thừa hưởng ân huệ và hòa thành một thể với tự nhiên, nhân loại lấy thức ăn từ cây tri thức, từ trong ân huệ rồi bị hãm vào trạng thái ô nhiễm, “hơn nữa cũng vì hành vi của chúng ta, sẽ có một ngày thẩm phán đợi chờ tất cả chúng ta. Chúng ta đều là những tội nhân về năng lượng, nhất định sẽ đi đến diệt vong, trừ khi chúng ta đi tìm sự cứu rỗi, sự cứu rỗi này hiện tại được gọi là ‘Tính bền vững’”. [62]
Michael Crichton cho rằng,tất cả những tín điều của chủ nghĩa bảo vệ môi trường đều có liên quan đến tín ngưỡng. “Điều này có liên quan đến việc bạn sẽ trở thành người có tội, hay là được cứu, bạn thuộc một trong những người được cứu rỗi, hay là một trong những người bị hủy diệt; là một trong số chúng tôi, hay là một trong số họ.” [63]
Cách nhìn này nhận được sự đồng tình của một số học giả khác. William Cronon nhà lịch sử học có sức ảnh hưởng ở Mỹ cho rằng, chủ nghĩa bảo vệ môi trường là một loại tôn giáo mới, bởi vì nó đã đề xuất ra một loạt những yêu cầu đạo đức phức tạp đối với các hành động luân lý, và dùng nó để phán xét hành vi của nhân loại. [64]
Freeman Dyson nhà khoa học nổi tiếng và tượng đài cơ học lượng tử được nêu ở trên đã nói trong một tác phẩm được viết năm 2008 tên là “Đánh giá New York về Sách”(New York Review of Books) như sau: “Chủ nghĩa bảo vệ môi trường đã thay thế được chủ nghĩa xã hội, trở thành một tôn giáo thế tục có vị trí chủ đạo trên phạm vi toàn cầu. Loại tôn giáo này cho rằng …… việc chúng ta có cuộc sống sinh hoạt xa xỉ, hoang phí sinh ra rác thải làm tổn hại đến trái đất là một loại tội, con đường đúng đắn là sống tiết kiệm hết mức có thể. Lý luận của loại tôn giáo mới này trở thành giáo trình của trường mẫu giáo, trường học và trường đại học toàn cầu.” [65]
Rất nhiều người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường cũng không giấu diếm vấn đề này. Rajendra Pachauri, cựu chủ quản của IPCC đã phải từ chức bởi những bê bối quấy rối tình dục, ông ta đã nói trong thư từ chức rằng bảo vệ môi trường là “tín ngưỡng tôn giáo của tôi”. [66]
Khi chủ nghĩa bảo vệ môi trường ngày càng hình thái ý thức hóa và ngày càng tôn giáo hóa, thì nó cũng ngày càng không thể dung nhẫn với những quan điểm bất đồng, ngày càng tấn công những ý kiến bất đồng, ngày càng tách rời khỏi khoa học. Nguyên Tổng thống Czech là Klaus cho rằng, phong trào bảo vệ môi trường hiện nay được thúc đẩy bởi hình thái ý thức nhiều hơn là khoa học; chủ nghĩa bảo vệ môi trường đã biến thành một loại chuẩn tôn giáo nhắm tới phá hủy xã hội hiện hành.
Loại tôn giáo mới này là giống với chủ nghĩa cộng sản, đã vẽ lên một utopia tươi đẹp, khiến con người có thể dựa vào sự khôn ngoan của chính họ, để quy hoạch môi trường tự nhiên, trở thành cứu thế chủ. Nhưng loại “cứu thế” này, lại là loại “cứu thế” được xác lập trên cơ sở phản đối nền văn minh hiện tại. Theo như Chủ tịch Ủy ban Cố vấn Đại học Hòa bìnhLiên Hợp Quốc và là người thiết kế nghị định thư Tokyo: “hy vọng duy nhất của trái đất không phải là sự sụp đổ của nền văn minh công nghiệp sao? [67] Klaus tổng kết rằng: “nếu chúng ta nghiêm túc đối đãi với lo-gic của những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường, chúng ta sẽ phát hiện rằng đó là một hình thái ý thức phản nhân loại.” [68] Ông đồng ý với quan điểm của nhà vật lý học Ivan Brezina, đó chính là chủ nghĩa bảo vệ môi trường tuyệt không phải là câu trả lời lý trí và khoa học cho vấn đề khủng hoảng sinh thái thật sự, mà nó là sự bài xích toàn bộ đối với hình thức văn minh hiện có.
Có người cho rằng, chủ nghĩa bảo vệ môi trường lợi dụng danh nghĩa bảo vệ môi trường để tạo ra hận thù giữa người với người, công kích những người bất đồng ý kiến một cách cực đoan bằng những cách thức khác nhau. Mà loại hận thù và cực đoan hóa này đã biểu hiện một loại chủ nghĩa phản nhân loại cấp tiến. Nhà bình luận chính trị người Canada, Mark Steyn đã nói: họ (những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường) cho rằng “mỗi một người sinh ra……sinh ra các vấn đề như nhiều rác thải hơn, nhiều ô nhiễm hơn, nhiều khí thải nhà kính hơn, và sự gia tăng dân số quá mức. Bản thân chúng ta chính là ô nhiễm; kiểm soát sinh đẻ là phương pháp giải quyết vấn đề. Cách tốt nhất để truyền lại cho thế hệ con cháu chúng ta một môi trường bền vững hơn là không có con….Lập trường của chủ nghĩa tiến bộ phát sinh biến hóa rất vi diệu: mỗi đứa trẻ đều nên là không được chào đón.” [69]
Việc coi con người như kẻ đầu sỏ phá hoại tự nhiên, đặt môi trường tự nhiên lên vị trí chí cao vô thượng và vượt xa hẳn vị trí thần thánh của con người như thế này, thậm chí tư duy không tiếc dùng đến việc khống chế sư sinh sản của con người, tước đoạt quyền lợi sinh sống của con người là tương tự với tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa cộng sản, trên bản chất là một loại chủ nghĩa phản nhân bản, bằng với việc dùng một loại tôn giáo mới để thay thế cách nhìn nhận con người là anh linh của vạn vật trong tôn giáo truyền thống.Loại quan điểm tôn giáo này kết hợp với chủ nghĩa cực quyền, cưỡng chế thống nhất tư tưởng yêu cầu cách mạng của chủ nghĩa phản tư bản, tuyệt đối sẽ không có cách nào đảm bảo chắc chắn cho việc bảo vệ môi trường tự nhiên cho con người; ngược lại, nó sẽ phá hủy nền văn minh hiện có, phá hủy tự do và trật tự hiện có, tạo ra khủng hoảng và sự hỗn loạn trước nay chưa từng có, khiến nhân loại bước vào con đường sai lầm, đây chính là ý đồ thực sự mà tà linh cộng sản mong muốn đạt được khi bắt cóc chủ nghĩa bảo vệ môi trường.
Lời kết: Tín Thần kính ngưỡng Trời, khôi phục truyền thống, thoát khỏi nguy cơ môi trường.
Thần đã sáng tạo ra con người, đồng thời cũng sáng tạo ra trái đất phồn vinh tươi đẹp cho con người, đây là môi trường sinh sôi tồn tại của nhân loại. Con người có quyền dùng tài nguyên trong tự nhiên, đồng thời có nghĩa vụ quý trọng tài nguyên trong tự nhiên, bảo vệ môi trường và vạn vật. Hàng trăm nghìn năm qua, nhân loại đã giữ vững lời khuyên răn mà Thần lưu truyền từ thời xa xưa, sinh sống hài hòa với tự nhiên.
Vấn đề môi trường xuất hiện thời cận đại, suy cho cùng là do tâm của con người trở nên xấu đi, nhưng hậu quả của nó lại bị khoa học kỹ thuật phóng đại hơn nữa. Môi trường tự nhiên ô nhiễm, là biểu hiện ra bên ngoài của thế giới nội tâm ô uế của nhân loại. Vì thế, làm sạch hoàn cảnh môi trường ắt phải bắt đầu từ làm sạch nội tâm.
Ý thức bảo vệ môi trường xuất phát từ bản năng tự cứu của nhân loại, vốn không có gì đáng trách. Nhưng nó đã tạo cơ hội cho tà linh thừa nước đục thả câu. Tà linh cộng sản lợi dụng những tay sai của nó ở thế gian, tạo ra những nỗi lo sợ quy mô lớn, cổ xúy cho những giá trị quan biến dị, tước đoạt quyền lợi tự do của con người, mưu đồ xây dựng đại chính phủ thậm chí chính phủ toàn cầu. Giải quyết vấn đề môi trường bằng cách tư duy biến dị của chủ nghĩa cộng như thế này, chỉ mang lại kết quả là đẩy con người đi đến việc bị nô dịch tập thể và đi đến hủy diệt nhanh hơn.
Giải quyết vấn đề môi trường không thể dựa vào vận động chính trị cưỡng chế, hoặc là chỉ dựa vào khoa học kỹ thuật hiện đại, mà là phải dựa vào sự hiểu biết sâu sắc về vũ trụ, tự nhiên và mối quan hệ giữa con người với tự nhiên cũng như tiêu chuẩn đạo đức cao thượng. Nhân loại khôi phục truyền thống, nâng cao đạo đức, đi trên con đường Thần chỉ cho, tự nhiên sẽ nhận được ân điển và trí huệ từ Thần. Non xanh nước biếc, hoa thơm chim hót sẽ quay trở lại bên những con dân của Thần; Trời cao trong xanh, càn khôn tươi sáng sẽ tồn tại cùng nhân loại đến vĩnh viễn.
*********
[2] Martin Durkin, The Great Global Warming Swindle (documentary film, 2007), Channel 4 (UK), March 8, 2007.
[3] Takuro Kobashia, et. al., “4 ± 1.5 °C Abrupt Warming 11,270 Years Ago Identified from Trapped Air in Greenland Ice,” Earth and Planetary Science Letters 268 (2008): 397–407.
[4] Freeman Dyson, “Misunderstandings, Questionable Beliefs Mar Paris Climate Talks,” The Boston Globe, December 3, 2015, https://www.bostonglobe.com/opinion/2015/12/03/freeman-dyson-misunderstandings-questionable-beliefs-mar-paris-climate-talks/vG3oBrbmcZlv2m22DTNjMP/story.html.
[5] Scott Waldman, “Judith Curry Retires, Citing ‘Craziness’ of Climate Science,” E&E News, January 4, 2017, https://www.eenews.net/stories/1060047798.
[6] J. A. Curry and P. J. Webster, “Climate Science and the Uncertainty Monster,” Bulletin of American Meteorology Society 92, no. 12:1667–1682, https://journals.ametsoc.org/doi/pdf/10.1175/2011BAMS3139.1.
[7]IPCC, “Working Group I: The Physical Science Basis,” IPCC Fourth Assessment Report: Climate Change 2007, https://www.ipcc.ch/publications_and_data/ar4/wg1/en/ch8s8-2-1-3.html.
[8] IPCC, “Working Group I: The Physical Science Basis,” IPCC Fourth Assessment Report: Climate Change 2007, https://www.ipcc.ch/publications_and_data/ar4/wg1/en/faq-2-1.html.
[9] Mark W. Shephard, et al., “Comparison of Tropospheric Emission Spectrometer Nadir Water Vapor Retrievals with in situ measurements,” Journal of Geophysical Research 113, no D15S24, doi:10.1029/2007JD008822.
[10] “Climate Change,” American Physics Society Web Page, https://www.aps.org/policy/reports/popa-reports/energy/climate.cfm.
[11] “Solar Constant,” Britannica Online, https://www.britannica.com/science/solar-constant.
[12] Willie Soon, et al., “Modeling Climatic Effects of Anthropogenic Carbon Dioxide Emissions: Unknowns and Uncertainties,” Climate Research 18 (2001): 259–275.
[13] Michael Lemonick, “Freeman Dyson Takes on the Climate Establishment,” Yale Environment 360, June 4, 2009, https://e360.yale.edu/features/freeman_dyson_takes_on_the_climate_establishment.
[14] Nir J. Shaviv, “Celestial Driver of Phanerozoic Climate?” Geological Society of America Today 13, no. 7: 4–10, July 2003, https://www.geosociety.org/gsatoday/archive/13/7/pdf/i1052-5173-13-7-4.pdf.
[15] J. Emile-Geay et al., “Links between Tropical Pacific Seasonal, Interannual and Orbital Variability during the Holocene,” Nature Geoscience 9 (2016): 168–173.
[16] Zhengyu Liu et al., “The Holocene Temperature Conundrum,” PNAS 111, no. 34, August 26, 2014.
[17] Olaf Stampf and Gerald Traufetter, “Climate Expert von Storch: Why Is Global Warming Stagnating?” Der Spiegel, June 20, 2013, http://www.spiegel.de/international/world/interview-hans-von-storch-on-problems-with-climate-change-models-a-906721.html.
[18] Richard S. Lindzen et. al. , “Does the Earth Have an Adaptive Infrared Iris?,” Bulletin of the American Meteorological Society 82 (2001) : 417 – 432, https://doi.org/10.1175/1520-0477(2001)082<0417:DTEHAA>2.3.CO;2.
[19] Roy Spencer et al, “Potential Biases in Feedback Diagnosis from Observational Data: A Simple Model Demonstration”, Journal of Climate. 21 (21): 5624–5628, Nov,1,2008.
[20] John R. Christy, “Written Report to Senate Commerce, Science and Transportation Committee”, November 14, 2007, https://www.nsstc.uah.edu/users/john.christy/christy/ChristyJR_CST_071114_written.pdf.
[21] David Russell Legates, “Statement to the Environment and Public Works Committee
of the United States Senate,” U.S. Senate, July 3, 2014, https://www.epw.senate.gov/public/_cache/files/a/a/aa8f25be-f093-47b1-bb26-1eb4c4a23de2/01AFD79733D77F24A71FEF9DAFCCB056.6314witnesstestimonylegates.pdf.
[22] William Happer, “Data or Dogma? A Senate Hearing on the Human Impact on Climate Change,” Hearing of the U.S. Senate Committee on Commerce, Science and Transportation, December 8, 2015, https://www.commerce.senate.gov/public/_cache/files/c8c53b68-253b-4234-a7cb-e4355a6edfa2/FA9830F15064FED0A5B28BA737D9985D.dr.-william-happer-testimony.pdf.
[23] Sir John Houghton, “Moral Outlook: Earthquake, Wind and Fire,” Sunday Telegraph, October 9, 1995.
[24] Jason Samenow, “Scientists: Don’t Make ‘Extreme Cold’ Centerpiece of Global Warming Argument,” The Washington Post, February 20, 2014, https://www.washingtonpost.com/news/capital-weather-gang/wp/2014/02/20/scientists-dont-make-extreme-cold-centerpiece-of-global-warming-discussions/?noredirect=on&utm_term=.3600e477f052.
[25] John Michael Wallace, “The Misplaced Emphasis on Extreme Weather in Environmental Threat Communication,” The Washington Post, March 14, 2014, https://www.washingtonpost.com/news/capital-weather-gang/wp/2014/03/14/the-misplaced-emphasis-on-extreme-weather-in-environmental-threat-communication/?utm_term=.bf84802d4613.
[26] Steve Koonin, “A Deceptive New Report on Climate,” The Wall Street Journal, November 2, 2017, https://www.wsj.com/articles/a-deceptive-new-report-on-climate-1509660882.
[27] Như trên。
[28] “Climate Change Indicators: High and Low Temperatures,” United States Environmental Protection Agency, https://www.epa.gov/climate-indicators/climate-change-indicators-high-and-low-temperatures.
[29] Judith A. Curry, “Statement to the Subcommittee on Space, Science and Competitiveness of the United States Senate,” Hearing on “Data or Dogma? Promoting Open Inquiry in the Debate over the Magnitude of Human Impact on Climate Change,” December 8, 2015, https://curryja.files.wordpress.com/2015/12/curry-senate-testimony-2015.pdf.
[30] Mike Hulme, “Chaotic World of Climate Truth,” BBC, November 4, 2006, http://news.bbc.co.uk/2/hi/science/nature/6115644.stm.
[31] Roy W. Spencer, Climate Confusion: How Global Warming Leads to Bad Science, Pandering Politicians and Misguided Policies that Hurt the Poor (New York: Encounter Books, 2008), Chapter 5.
[32] Christopher C. Horner, Red Hot Lies: How Global Warming Alarmists Use Threats, Fraud, and Deception to Keep You Misinformed (Washington DC: Regnery Publishing, 2008), 214.
[33] Christopher C. Horner, Red Hot Lies: How Global Warming Alarmists Use Threats, Fraud, and Deception to Keep You Misinformed, 215.
[34] Christopher C. Horner, Red Hot Lies: How Global Warming Alarmists Use Threats, Fraud, and Deception to Keep You Misinformed, 211.
[35] Christopher C. Horner, Red Hot Lies: How Global Warming Alarmists Use Threats, Fraud, and Deception to Keep You Misinformed, 212-213.
[36] Christopher C. Horner, Red Hot Lies: How Global Warming Alarmists Use Threats, Fraud, and Deception to Keep You Misinformed, 227.
[37] Xem thêm David Shearman and Joseph Wayne Smith, The Climate Change Challenge and the Failure of Democracy (Westport, CT: Praeger, 2007).
[38] Christopher C. Horner, Red Hot Lies: How Global Warming Alarmists Use Threats, Fraud, and Deception to Keep You Misinformed, 219-220.
[39] [Tiệp Khắc-Czech] Vaclav · Klaus:《Bạo Chính bảo vệ môi trường》,Tống Phượng Vân dịch(Bắc Kinh:Công ty xuất bản thư viện thế giới,2012),trang 5。
[40] John Bachtell, “China Builds an ‘Ecological Civilization’ while the World Burns,” People’s World, August 21, 2018, https://www.peoplesworld.org/article/china-builds-an-ecological-civilization-while-the-world-burns/.
[41] [Tiệp Khắc-Czech] Vaclav · Klaus:《Bạo Chính bảo vệ môi trường》,Trang 4。
[42] [Tiệp Khắc-Czech] Vaclav · Klaus:《Bạo Chính bảo vệ môi trường》,Trang 7-8。
[43] [Tiệp Khắc-Czech] Vaclav · Klaus:《Bạo Chính bảo vệ môi trường》,Trang 100。
[44] John Fund, “Rollback Obama’s CAFE Power Grab, Give Car Consumers Freedom,” National Review, May 23, 2018, https://www.nationalreview.com/corner/fuel-standards-cafe-epa-rolls-back/.
[45] Ariana Eunjung Cha, “Solar Energy Firms Leave Waste Behind in China,” The Washington Post, March 9, 2008, http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2008/03/08/AR2008030802595.html?referrer=emailarticle&noredirect=on.
[46] Trương trình:〈Dự án của Foxconn được cấp phép tại Quảng Châu chỉ trong 50 ngày, Quách Đài Minh lên tiếng Mỹ nên học ‘hiệu suất của Trung Quốc’〉,《Thông tin tham khảo》,ngày 3/3/2017,http://www.cankaoxiaoxi.com/china/20170303/1733380.shtml。
[47] “The Paris Agreement on Climate Change,” Natural Resources Defense Council (NRDC), December 2015, IB: 15-11-Y, https://www.nrdc.org/sites/default/files/paris-climate-agreement-IB.pdf.
[48] Donald J. Trump, “Statement by President Trump on the Paris Climate Accord,” The White House, June 1, 2017, https://www.whitehouse.gov/briefings-statements/statement-president-trump-paris-climate-accord/.
[49] Christopher C. Horner, Red Hot Lies: How Global Warming Alarmists Use Threats, Fraud, and Deception to Keep You Misinformed, 117.
[50] Roy W. Spencer, The Great Global Warming Blunder: How Mother Nature Fooled the World’s Top Climate Scientists (New York: Encounter Books, 2010), 31.
[51] Brendan O’Neill, “A Climate of Censorship,” The Guardian, November 22, 2006, https://www.theguardian.com/commentisfree/2006/nov/22/aclimateofcensorship.
[52] Christopher C. Horner, Red Hot Lies: How Global Warming Alarmists Use Threats, Fraud, and Deception to Keep You Misinformed, 64.
[53] Như trên。
[54] Brendan O’Neill, “A Climate of Censorship,” The Guardian, November 22, 2006, https://www.theguardian.com/commentisfree/2006/nov/22/aclimateofcensorship.
[55] Như trên。
[56] Christopher C. Horner, Red Hot Lies: How Global Warming Alarmists Use Threats, Fraud, and Deception to Keep You Misinformed, 107.
[57] Hans von Spakovsky and Nicolas Loris, “The Climate Change Inquisition: An Abuse of Power that Offends the First Amendment and Threatens Informed Debate,” The Heritage Foundation Report, October 24, 2016, https://www.heritage.org/report/the-climate-change-inquisition-abuse-power-offends-the-first-amendment-and-threatens.
[58] Như trên。
[59] Saul Alinsky, Rules for Radicals: A Practical Primer for Realistic Radicals (New York: Vintage Books, 1971), “Tactics.”
[60] “Climate Movement Drops Mask, Admits Communist Agenda,” PJ Media, September 23, 2014, https://pjmedia.com/zombie/2014/9/23/climate-movement-drops-mask-admits-communist-agenda/.
[61] “People’s Climate March: Thousands Rally to Denounce Trump’s Environmental Agenda,” The Guardian, April 29, 2017, https://www.theguardian.com/us-news/2017/apr/30/peoples-climate-march-thousands-rally-to-denounce-trumps-environmental-agenda.
[62] Michael Crichton, “Crichton: Environmentalism Is a Religion,” Hawaii Free Press, April 22, 2018, http://www.hawaiifreepress.com/ArticlesMain/tabid/56/ID/2818/Crichton-Environmentalism-is-a-religion.aspx.
[63] Như trên。
[64] Robert H. Nelson, “New Religion of Environmentalism,” Independent Institute, April 22, 2010, http://www.independent.org/news/article.asp?id=5081.
[65] Joel Garreau, “Environmentalism as Religion,” The New Atlantis, Summer 2010, https://www.thenewatlantis.com/docLib/20100914_TNA28Garreau.pdf.
[66] Damian Carrington, “IPCC Chair Rajendra Pachauri Resigns,” The Guardian, February 24, 2015, https://www.theguardian.com/environment/2015/feb/24/ipcc-chair-rajendra-pachauri-resigns.
[67] Michael Whitcraft, “A Lot of Hot Air – A Review of Václav Klaus’ Recent Book: Blue Planet in Green Shackles,” Free Republic, June 13, 2008, http://www.freerepublic.com/focus/f-news/2030948/posts.
[68] Như trên。
[69] Quoted in Christopher C. Horner, Red Hot Lies: How Global Warming Alarmists Use Threats, Fraud, and Deception to Keep You Misinformed, 228.
Bản tiếng Hán: http://www.epochtimes.com/gb/18/9/6/n10695307.htm
Bản tiếng Anh: https://www.theepochtimes.com/chapter-sixteen-the-communism-behind-environmentalism-part-ii_2786362.html
Bản dịch có thể được chỉnh sửa trong tương lai để sát hơn với nguyên tác.