Một quyển sách
đã truyền cảm hứng cho hơn 350 triệu người
thoái xuất khỏi Đảng Cộng Sản Trung Quốc

Chương 16: Chủ nghĩa bảo vệ môi trường – Sự thao túng của Chủ nghĩa Cộng sản ở phía sau Chủ nghĩa bảo vệ môi trường (Phần I) (audio)

Mục lục

Lời nói đầu

1. Căn nguyên cộng sản của chủ nghĩa bảo vệ môi trường

1.1 3 giai đoạn phát triển của chủ nghĩa bảo vệ môi trường

1.2 Chủ nghĩa bảo vệ môi trường kế thừa thái độ đối với môi trường của chủ nghĩa Marx

1.3 Chủ nghĩa Marx sinh thái

1.4 chủ nghĩa xã hội sinh thái

1.5 Chính trị xanh: Màu xanh là màu đỏ mới

1.6 Chủ nghĩa khủng bố sinh thái

1.7 Mặt bất hòa bình phía sau của “Hòa bình xanh”

2. Sự hoang đường của “đồng thuận” biến đổi khí hậu

2.1 Lịch sử của “đồng thuận” khoa học

2.2 Xác lập và củng cố sự “đồng thuận”: Tư tưởng thống nhất trong giới khoa học

=========

Lời nói đầu

Trái đất là nơi sinh sống của nhân loại, nó đã cung cấp cho nhân loại thức ăn, các loại tài nguyên để sinh sống và các điều kiện để phát triển, cho phép con người sinh sôi phát triển, duy trì trong hàng nghìn năm.

Con người có mối quan hệ tương tác mật thiết với môi trường tự nhiên, truyền thống văn hóa phương Tây và Trung Quốc đều chú trọng quan hệ cộng sinh tốt đẹp giữa con người và tự nhiên. Một mặt, “Thiên địa chi sinh vạn vật dã, dĩ dưỡng nhân””, [1] tức là mục đích trời tạo ra vạn vật là vì nuôi sống con người, vạn vật có thể được con người sử dụng một cách hợp lý; một mặt khác, con người trong sinh hoạt cần phải tuân theo lý của trời đất, sử dụng có điều độ, chủ động duy trì môi trường sinh sống tự nhiên của con người.

Văn hóa truyền thống phương Tây cho rằng, môi trường tự nhiên là Sáng Thế chủ ban cho con người và giao cho con người quản lý, vì thế con người phải trân quý và sử dụng khéo léo. Trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, giảng rằng vạn sự vạn vật phát triển cân bằng, không xung đột với nhau. Sách “Trung Dung” viết: “Vạn vật tịnh dục nhi bất tương hại, đạo tịnh hành bất tương bội” (tạm dịch: vạn vật sinh trưởng không xung đột, đồng hành phát triển không mâu thuẫn).

Người xưa Trung Quốc từ rất sớm đã chú ý đến việc duy trì môi trường. Căn cứ ghi chép của tài liệu lịch sử, thời Đại Vũ, “3 tháng mùa Xuân, không vào rừng chặt cây, để cây cỏ sinh trưởng, 3 tháng mùa hè, không thả lưới bắt cá, để cho cá sinh trưởng”. [2] Tăng tử nói: “Thụ mộc dĩ thời phạt yên, cầm thú dĩ thời sát yên (tạm dịch: Cây rừng nên tuỳ thời mà chặt, chim muông thú tuỳ thời mà bắt).” [3] Những điều này đều đã biểu hiện tư tưởng sử dụng có chừng mực, trân quý và bảo vệ sinh thái.

Sau cách mạng công nghiệp cận đại, công nghiệp đã gây ô nhiễm phá hoại sinh thái tự nhiên, khiến cho con người bắt đầu xem trọng vấn đề môi trường. Sau khi thực hiện các loại biện pháp bảo hộ và pháp lệnh liên quan, ô nhiễm đã được ngăn chặn hiệu quả, môi trường được cải thiện lớn. Trong quá trình này, ý thức bảo vệ môi trường của con người được nâng lên, nỗ lực của con người để cải thiện và bảo vệ môi trường tự nhiên đều đáng được ghi nhận.

Ở đây cần phân biệt rõ một số khái niệm: Bảo vệ môi trường, vận động bảo vệ môi trường và chủ nghĩa bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường, theo nghĩa đen, chính là bảo vệ đối với môi trường. Từ khi có văn minh nhân loại, là đã có sự bảo vệ của con người với môi trường. Loại hoạt động bảo vệ môi trường này không có bất kỳ quan hệ nào đến hình thái ý thức chính trị. Vận động bảo vệ môi trường là hoạt động chính trị và xã hội nhắm vào vấn đề môi trường, chủ thể của nó là thông qua các hoạt động chính trị phức tạp và xảo diệu, tấn công bằng truyền thông và vận động quần chúng quy mô lớn, để thay đổi những chính sách liên quan đến môi trường, thay đổi những tâm lý và hành vi tập quán của quần chúng. Chủ nghĩa bảo vệ môi trường, là một loại hình thái ý thức chính trị và tư tưởng triết học nhấn mạnh vào việc bảo vệ môi trường và sự chung sống hài hòa giữa con người và tự nhiên. Căn nguyên của vận động bảo vệ môi trường và chủ nghĩa bảo vệ môi trường khác với căn nguyên của chủ nghĩa cộng sản, nhưng tà linh cộng sản vốn giỏi về vận động bắt cóc quần chúng, thao túng và lợi dụng hình thế xã hội, vì thế ngay lúc ban đầu khi chủ nghĩa bảo vệ môi trường hiện đại xuất hiện, tà linh cộng sản đã an bài một hệ thống để lợi dụng và dẫn dắt nó.

Nhân tố đằng sau chủ nghĩa bảo vệ môi trường trên phạm vị toàn thế giới ngày nay cực kỳ phức tạp. Nó gắng sức dùng những nguyện vọng tốt đẹp lương thiện của mọi người, dùng những lý do khiến con người phải động lòng, để dấy khởi lên một cuộc vận động chính trị bao phủ toàn cầu. Tham gia vào trong đó có không ít những người lương thiện, có tinh thần chính nghĩa và thực sự quan tâm đến tiền đồ vận mệnh của nhân loại. Tuy nhiên nhân tố đằng sau của cuộc vận động này là tà linh cộng sản, nó lợi dụng nền tảng đạo đức cao của việc bảo vệ môi trường để thúc đẩy âm mưu của nó. Trong cuộc vận động này, bảo vệ môi trường bị chính trị hóa, bị cực đoan hóa thậm chí còn bị tôn giáo hóa một cách cao độ; cơ sở đạo đức truyền thống bị lãng quên, những tuyên truyền có tính đánh lạc hướng thậm chí các loại thủ đoạn chính trị mang tính cưỡng chế trở thành nhân tố chủ đạo. Chủ nghĩa bảo vệ môi trường đang trở thành chủ nghĩa cộng sản với một loại hình thái khác.

Chương này sẽ chú trọng phân tích sâu về việc chủ nghĩa bảo vệ môi trường có mối liên hệ nào với chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa bảo vệ môi trường bị bắt cóc và biến dạng như thế nào,cho đến việc nó sẽ mang lại những ảnh hưởng gì.

1. Căn nguyên cộng sản của chủ nghĩa bảo vệ môi trường

Vì mục tiêu cuối cùng là tiêu diệt nhân loại, tà linh cộng sản đã chuẩn bị kỹ lưỡng trong rất nhiều phương diện. Chủ nghĩa cộng sản bắt đầu từ Châu Âu, sau đó lại phát động bạo lực cách mạng để nắm chính quyền tại hai quốc gia lớn ở phía Đông – là Nga và Trung Quốc, tiếp đến là sự đối đầu trong thời gian dài của phe cộng sản và xã hội phương Tây trong chiến tranh lạnh. Sau sự sụp đổ của khối cộng sản tại Liên xô và Đông Âu, tà linh cộng sản mưu đồ bắt đầu bố trí đồng thời các nhân tố chủ nghĩa cộng sản ở phương Đông và phương Tây, để kiến lập một chính phủ toàn cầu kiểm soát và khống chế nghiêm ngặt. Vì để thực hiện mục tiêu này, tà linh phải tạo ra hoặc lợi dụng một “kẻ địch” đủ để uy hiếp toàn nhân loại, để đe dọa nhân loại từ bỏ quyền tự do cá nhân và chủ quyền quốc gia dân tộc. Tạo ra nỗi lo sợ đối với thảm họa sinh thái và môi trường mang tính toàn cầu có thể nói là lựa chọn tất nhiên của nó.

1.1 Ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa bảo vệ môi trường

Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa bảo vệ môi trường có liên quan rất lớn đến chủ nghĩa cộng sản. Nói một cách cụ thể, sự phát triển của nó đã trải qua 3 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là thời kỳ chuẩn bị lý luận, giai đoạn này có thể tính từ khi Marx và Engels xuất bản “Tuyên ngôn đảng cộng sản”, cho đến Ngày Trái đất lần đầu tiên vào năm 1970. Trong thời kỳ ban đầu của giai đoạn này, Marx và các môn đồ của ông ta không coi chủ nghĩa bảo vệ môi trường là trọng điểm lý luận luận thuật của mình, nhưng quan điểm thuyết vô thần và thuyết tiến hóa của Chủ nghĩa Marx thì tự bản thân nó lại rất phù hợp với khuynh hướng chủ yếu của chủ nghĩa bảo vệ môi trường. Marx tuyên bố, chủ nghĩa tư bản là đối lập với tự nhiên (tức môi trường). Các môn đồ của Marx đã tạo ra cụm từ “hệ thống sinh thái (ecosystem)”, chủ nghĩa bảo vệ môi trường âm thầm nảy nở trong một số môn học. Trong 10 năm cuối của giai đoạn này, tức là từ năm 1960 đến 1970, hai cuốn sách bán chạy là “Mùa xuân yên tĩnh” (1962) và “Bùng nổ dân số” (1968) nổi lên ở Mỹ, chủ nghĩa bảo vệ môi trường mượn khái niệm “bảo vệ môi trường” để bước ra công chúng.

Cột mốc đánh dấu giai đoạn thứ 2 là năm 1970 khi hoạt động Ngày Trái đất lần đầu tiên được cử hành. Năm 1972, Liên Hợp Quốc tổ chức đại hội môi trường lần đầu tiên ở Stockholm. Các tổ chức khác nhanh chóng được sinh ra trong giai đoạn này, các hoạt động cũng tăng lên, ở Mỹ và Châu Âu đều tiến hành các hoạt động tấn công chính trị với quy mô khác nhau như tuyên truyền, biểu tình, “nghiên cứu khoa học”, lập pháp, hội nghị v.v.. Nói một cách tổng quan, phong trào phản văn hóa ở phương Tây những năm 1960 của thế kỷ trước là một cuộc trình diễn và duyệt binh của nhân tố tà linh cộng sản trong nội bộ phương Tây, chúng sử dụng danh nghĩa phong trào dân quyền và phong trào hòa bình phản chiến để leo lên vũ đài xã hội và chính trị, nhưng nhân tố chủ nghĩa cộng sản với số lượng cự đại, khí thế hung hãn, chúng nhanh chóng tràn sang các cuộc chiến khác chống lại chủ nghĩa tư bản với các hình thức khác nhau như phong trào nữ quyền và phong trào hợp pháp hóa đồng tính luyến ái. Sau những năm 1970, phong trào chống chiến tranh Việt Nam thoái trào, một bộ phận nhân tố chủ nghĩa cộng sản tiến vào trong thể chế, dấy lên “cuộc trường chinh trong thể chế”, một bộ phận khác tràn sang chủ nghĩa nữ quyền và chủ nghĩa bảo vệ môi trường, đây là nguyên nhân căn bản của thế lực chủ nghĩa bảo vệ môi trường tăng cao. Một trong những lực lượng quan trọng nhất đã giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa bảo vệ môi trường trong những năm 1970, chính là những người Hippies, những người đóng vai trò chủ lực trong phong trào phản văn hóa. Trên thực tế, tà linh cộng sản đã gia tăng chuẩn bị cho việc sau khi hai khối lớn (khối cộng sản và khối tự do) kết thúc đối đầu, dùng ngọn cờ chủ nghĩa bảo vệ môi trường để làm vỏ bọc mới cho bản thân, dấy lên một cao trào chủ nghĩa cộng sản khác nhưng không được gọi là chủ nghĩa cộng sản.

Giai đoạn thứ ba bắt đầu trước khi chiến tranh lạnh kết thúc. Năm 1988, Ủy ban chuyên về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc (sau đây gọi tắt là IPCC) thành lập, khái niệm “sự nóng lên toàn cầu” bắt đầu được sử dụng trong lĩnh vực chính trị. [4] Trước khi Liên Xô giải thể, Matxcova đã từng tổ chức hội nghị môi trường quốc tế,Tổng bí thư Đảng cộng sản Nga Mikhail Gorbachev đã đề xuất xây dựng một hệ thống giám sát môi trường quốc tế, ký tên xây dựng hiệp ước “đặc khu bảo vệ môi trường” và ủng hộ phương án môi trường của Liên Hợp Quốc, và lại tổ chức hội nghị môi trường nối tiếp cho những hoạt động trên tại Brazil. [5] Chúng ta sau đó đã thấy được, người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường phương Tây gần như đã hoàn toàn chấp nhận những đề nghị này. Giới chính trị Mỹ đã xuất bản một bức thư ngỏ “Những người hoài nghi về lý thuyết nóng lên toàn cầu”, “sự nóng lên toàn cầu” trở thành một kẻ địch chủ yếu mà những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường (những người đứng đầu của nó là những người theo chủ nghĩa cộng sản giả trang) dựng lên cho nhân loại trong giai đoạn này. Mượn cớ bảo vệ môi trường để đột ngột tăng mạnh tuyên truyền, xây dựng pháp luật bảo vệ môi trường, số lượng công ước môi trường tăng nhanh, lớn thêm về quy mô, chủ nghĩa bảo vệ môi trường đã trở thành công cụ chủ yếu để hạn chế quyền tự do công dân các nước, tước đoạt chủ quyền quốc gia dân tộc, hạn chế và công kích xã hội tự do phương Tây. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, những người cộng sản Đông Âu và Liên xô trước đây, những người theo chủ nghĩa cộng sản phương Tây và những người đồng chí đã đồng loạt thay đổi cách thức, tham gia vào cuộc vận động bảo vệ môi trường, chủ nghĩa bảo vệ môi trường và phong trào môi trường đột ngột sôi động lên, thanh thế trở nên rầm rộ, đồng thời có màu sắc chủ nghĩa cộng sản càng rõ ràng hơn.

1.2 Chủ nghĩa bảo vệ môi trường kế thừa thái độ đối với môi trường của chủ nghĩa Marx

Những người thuộc các tín ngưỡng chính giáo Đông Tây phương nhìn nhận, con người là do Thần mô phỏng hình tượng của bản thân mà tạo ra, sinh mệnh của con người cũng vì thế mà có giá trị và sự tôn nghiêm cao hơn các sinh mệnh khác trên địa cầu. Cùng với đó, môi trường tự nhiên cũng là do Thần sáng tạo ra dành cho con người, con người có nghĩa vụ bảo vệ môi trường tự nhiên; môi trường tự nhiên tồn tại là vì con người, mà không phải là ngược lại. Nhưng trong mắt của những người vô thần và người duy vật, sinh mệnh của con người tuyệt không có gì đặc thù như thế. Angels khẳng định trong cuốn sách “Chống Dühring (tiếng Đức: Anti-Dühring) hay tên khác là Ông Eugen Dühring đã đảo lộn khoa học (tiếng Đức: Herrn Eugen Dührings Umwälzung der Wissenschaft)” của mình rằng: “sinh mệnh là hình thức tồn tại của protein.” [6] Nếu như vậy, sinh mệnh của con người chính là một loại hình thức tồn tại đặc thù của protein, không có bất cứ sự khác biệt nào với động vật và thực vật. Vì thế, dùng danh nghĩa bảo vệ tự nhiên để tước đoạt tự do thậm chí là sinh mệnh của con người cũng là chuyện hết sức hiển nhiên hợp lý

Năm 1862, trong một cuốn sách về hóa học hữu cơ nhà hóa học người Đức Justus von Liebig đồng nghiệp của Marx, đã công kích việc nông dân Anh sử dụng phân chim làm phân bón. Nông nghiệp Anh được hưởng lợi từ phân chim, một loại phân bón hiệu quả cao, cho sản lượng canh tác tăng cao. Đến giữa thế kỷ 19, thực phẩm của người Anh sung túc, chất lượng rất cao. Việc buôn bán phân chim khiến cho những bên như thương nhân các nước, nông dân Anh và người dân Anh v.v. thu được lợi ích. Vậy tại sao Liebig muốn lên án hành vi này? “Sự phẫn nộ thay cho đạo đức chính nghĩa” của ông ta xuất phát từ 4 lý do sau: thứ nhất, trong quá trình thu phân chim sẽ gây ra phá hoại đối với môi trường tự nhiên; thứ hai, thương nhân dùng tiền công thấp để bóc lột công nhân; thứ ba, sản lượng lương thực cao, thúc đẩy dân số tăng lên, ngược lại lại dẫn đến cần nhiều lương thực hơn, điều này vượt quá sức chịu đựng của môi trường tự nhiên; thứ tư, càng nhiều người và gia súc có nghĩa là có càng nhiều rác thải và phân. [7]

Lúc Marx đang vùi đầu viết cuốn “Luận Tư bản” đã nghiền ngẫm rất kỹ tác phẩm của Liebig, ông ta tán thưởng Liebig, rằng “từ góc nhìn khoa học tự nhiên đã phát hiện mặt trái của nông nghiệp hiện đại tức là phương diện phá hủy tự nhiên” [8] Cũng giống như Liebig, Marx coi bất kỳ nỗ lực nào sử dụng tài nguyên thiên nhiên để sáng tạo ra của cải đều là một vòng tuần hoàn ác tính, ông ta kết luận rằng “nông nghiệp lý tính và chế độ chủ nghĩa tư bản là không phù hợp với nhau.” [9]

Sau khi phát động chính biến ở Nước Nga, Lê-nin và những người Bôn-sê-vích đã nhanh chóng ban bố “Pháp lệnh ruộng đất”, “pháp lệnh rừng” v.v., coi ruộng đất, rừng, tài nguyên nước, khoáng sản, tài nguyên động thực vật đều thuộc về tài sản quốc gia, không cho phép bất kỳ người dân nào được tự ý khai thác sử dụng. [10]

Nhà văn người Mỹ là Brian Sussman đã sắc bén chỉ ra trong cuốn sách “Sinh thái bạo chính” rằng, tư tưởng của Marx, Lê-nin tương đồng rất lớn với những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường ngày nay, đó chính là: không ai có quyền thu lợi từ tài nguyên thiên nhiên, “dù là bảo tồn rừng, cá voi, ốc sên hay là khí hậu, cơ sở của tất cả những lý luận này đều là dựa trên một niềm tin thâm căn cố đế, tức là loại phương thức thu lợi này là không đạo đức, nếu không mau chóng hạn chế, cuối cùng sẽ phá hủy trái đất này.” [11]

Cuộc vận động bảo vệ môi trường mang tính toàn cầu này đã liên quan đến rất nhiều những nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội, những người làm truyền thông v.v., chúng tôi không thể liệt kê hết những tư tưởng và những phát ngôn cũng như những hành động đó tại đây, nhưng có một người không thể không đề cập đến là một người Canada Maurice Strong, chính là người đã sáng lập Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (UNEP), và cũng là người tổ chức Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường nhân loại năm 1972 và Hội nghị Liên hiệp quốc về Môi trường và Phát triển năm 1992. Cô của Strong là Anna Louise Strong là một nhà báo thân cộng sản và đã sống quãng đời còn lại ở Trung Quốc. Maurice Strong chịu ảnh hưởng sâu sắc của cô mình, ông đã miêu tả bản thân là “trên hình thái ý thức tôi là người theo chủ nghĩa xã hội, trên phương pháp lý luận tôi là nhà tư bản”. Có người cho rằng Strong là “Kẻ truy cầu quyền lực khiến người ta phát sợ”, “quan điểm của ông ta cũng cấp tiến như những người biểu tình dưới đường phố của chủ nghĩa bảo vệ môi trường cấp tiến nhất, nhưng ông ta không khản giọng hô khẩu hiệu trước hàng rào cảnh sát được bố trí bên ngoài hội nghị toàn cầu, mà là với danh nghĩa là tổng thư ký nắm trong tay chiếc búa chủ trì hội nghị bên trong hội trường.” [12] Các quan điểm được thể hiện bởi Cơ quan Môi trường Liên Hợp Quốc do Strong lãnh đạo hoàn toàn giống với quan điểm của chủ nghĩa Marx: “Quyền tư hữu đất đai là công cụ chủ yếu của tích lũy của cải, có tác dụng dẫn đến bất công xã hội. Vì thế, công hữu quyền sử dụng đất đai là tất yếu.” [13] Sau khi Maurice Strong nghỉ hưu đã chọn định cư ở Bắc Kinh, đến năm 2015 thì qua đời.

Chuyên gia về vấn đề Liên-Xô – người có nghiên cứu chuyên sâu đối với “chiến tranh tin đồn”, Natalie Grant Wraga (đã quá cố) từng viết: “Bảo vệ môi trường đã trở thành công cụ chủ yếu để chỉ trích tất cả những thứ của phương Tây. Có thể mượn cớ bảo vệ môi trường, để làm một loạt biện pháp phá hoại cơ sở công nghiệp của các quốc gia phát triển. Nó còn có thể thông qua việc hạ thấp mức sống (của các quốc gia phát triển) và dẫn dắt các giá trị quan của chủ nghĩa cộng sản vào để thực hiện mục đích quấy rối phá đám.” [14] Trên thực tế, tư tưởng chủ nghĩa bảo vệ môi trường không chỉ đến từ khối cộng sản cũ. Tà linh cộng sản bố trí đồng thời tại Đông và Tây phương, trong nội bộ thế giới tự do cũng gieo vào rất nhiều hạt giống hủy diệt.

Rất nhiều các loại học thuyết, đoàn thể, phong trào, chính sách của Chủ nghĩa Bảo vệ môi trường đều là có liên quan mật thiết với chủ nghĩa cộng sản. Chúng tôi sẽ nêu ra ví dụ để làm rõ điều này.

1.3 Chủ nghĩa Marx sinh thái

Ray Lankester và Arthur Tansley, những người Anh đã đề xuất khái niệm sinh thái cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đều là những người theo chủ nghĩa Fabian (chủ nghĩa Fabian là một biến thể của chủ nghĩa Marx). Lankester là nhà động vật học, và là bạn thời trẻ của Marx. Khi Marx về già, Lankester là khách thường xuyên của gia đình Marx, cũng là một trong số ít những người tham gia lễ tang của Marx. Lankester từng viết thư cho Marx, nói rằng ông ta “rất vui và thu được lợi ích rất lớn” sau khi hiểu được “công việc vĩ đại trong cuốn ‘Tư bản’” của Marx. Tansley, là nhà sinh thái thực vật quan trọng nhất của nước Anh trong thế hệ của ông ta, từ “hệ sinh thái” này chính là từ ông ta mà ra, ông là chủ tịch đầu tiên của “hội khoa học sinh thái Anh”. Khi học tại Đại học Luân-Đôn, Tansley đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Lankester. [15]

Thông qua Tansley và Lankester có thể thấy được khoa học sinh thái có gốc gác từ chủ nghĩa Marx. Đương nhiên, khoa học sinh thái tuyệt không phải là chủ nghĩa bảo vệ môi trường. Khoa học sinh thái nghiên cứu mối liên hệ giữa thể sinh vật và môi trường xung quanh, chủ nghĩa bảo vệ môi trường đặc biệt quan tâm đến thảm họa sinh thái. Dù vậy, khoa học sinh thái có thể vì để hạn chế một thảm họa sinh thái nào đó mà đưa ra một cơ sở lý luận, điều này có quan hệ mật thiết với chủ nghĩa bảo vệ môi trường. Chủ nghĩa Marx sinh thái chính là được sinh ra từ khoa học sinh thái.

Ngoài khái niệm khủng hoảng kinh tế, Chủ nghĩa Marx sinh thái đã thêm vào khái niệm khủng hoảng sinh thái; đã mở rộng mâu thuẫn của công nhân với các nhà tư bản, thêm vào mâu thuẫn giữa sản xuất và môi trường. Đây chính là cái gọi là lý luận mâu thuẫn kép, khủng hoảng kép. Nói theo luận thuật có tính lý luận này, thì mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản mà Marx nói đến chính là mâu thuẫn giữa năng suất và sản xuất, bị coi là mâu thuẫn thứ nhất; và mâu thuẫn giữa một chỉnh thể hợp thành từ năng xuất và quan hệ sản xuất đối với điều kiện sản xuất (hệ sinh thái), chính là mâu thuẫn thứ hai. Mâu thuẫn thứ nhất dẫn đến khủng hoảng kinh tế, mâu thuẫn thứ hai dẫn đến khủng hoảng sinh thái. [16]

Thực tiễn hơn 100 năm chủ nghĩa tư bản đã chứng minh, chủ nghĩa tư bản không hề vì khủng hoảng kinh tế mà đi đến diệt vong như Marx miêu tả, mà ngược lại đã tạo nên sự phồn vinh trước nay chưa từng có. Và thế là, khủng hoảng thứ hai – khủng hoảng sinh thái, đã trở thành công cụ để chủ nghĩa cộng sản lợi dụng hoàn toàn. Cơ sở lý luận của chủ nghĩa Marx mà các học giả cánh tả đã tìm được cho phong trào môi trường, đang thúc đẩy sự triệt để của chủ nghĩa môi trường.

1.4 Chủ nghĩa xã hội sinh thái

Chủ nghĩa xã hội sinh thái, nhìn tên là biết ý nghĩa, chính là hình thái ý thức hợp thành do chủ nghĩa xã hội và khoa học sinh thái buộc lại với nhau, vì thế, bị người ta gọi đùa là “quả dưa hấu” –– vỏ ngoài màu xanh, bên trong lại là đỏ, hoặc là “hội xanh đỏ” –– lấy một số yêu cầu điển hình của chủ nghĩa xã hội, như là công bằng xã hội (social justice), thêm vào khoa học sinh thái, rõ ràng là muốn dùng bảo vệ môi trường để thúc đẩy cho sự nghiệp chủ nghĩa xã hội.

Lập trường chủ nghĩa xã hội sinh thái biểu hiện rõ nhất chính là “Tuyên ngôn chủ nghĩa xã hội sinh thái” năm 2001 của Joel Kovel và Michael Lowy. Kovel từng mong được đề cử làm ứng viên tổng thống Đảng Xanh vào năm 2000, nhưng không thành công. Tác giả khác là Lowy là thành viên của phái Trotsky “Đệ tứ quốc tế”. Tuyên ngôn viết, chủ nghĩa tư bản không thể giải quyết được khủng hoảng sinh thái, tất yếu sẽ bị thay thế bởi chủ nghĩa xã hội sinh thái. Trong con mắt của họ, chủ nghĩa xã hội sinh thái không phải là một chi phái hoặc là một phái khác của chủ nghĩa xã hội, mà là một danh từ mới của chủ nghĩa xã hội trong thời đại mới. [17] Năm 2002 Kovel đã xuất bản cuốn sách mới là “Kẻ địch của tự nhiên: Sự kết thúc của chủ nghĩa tư bản hay là sự kết thúc của thế giới?”, đã trình bày tỉ mỉ lý luận “chủ nghĩa xã hội sinh thái” của ông ta, đã đưa ra phê bình gay gắt đối với chủ nghĩa tư bản, chủ trương sử dụng phương hướng mới cấp tiến hơn để thay đổi hiện trạng. [18]

1.5 Chính trị xanh: Màu xanh là màu đỏ mới

Thời điểm chủ nghĩa bảo vệ môi trường tiến vào chính phủ, liền sinh ra chính trị xanh (Green politics, cũng gọi là chính trị sinh thái, ecopolitics). Đảng xanh được thành lập ở các quốc gia trên thế giới, chính là sản phẩm của chính trị xanh. Thông qua việc tham gia tranh cử tại địa phương và quốc gia, nó mưu đồ tham gia vào tầng lớp đưa ra quyết sách để thực hiện lý niệm của nó. Phạm vi của chính trị xanh thông thường cũng không hoàn toàn giới hạn ở việc bảo vệ môi trường, mà đã thâm nhập vào công bằng xã hội, chủ nghĩa nữ quyền, dân chủ cơ sở, phản chiến và chủ nghĩa hòa bình v.v. “Đảng xanh toàn cầu (Global Greens)” chính là một tổ chức quốc tế hình thành từ những đảng xanh này, năm 2001 đã công bố “Hiến chương xanh toàn cầu”, mang đầy màu sắc chủ nghĩa Marx, dùng khẩu hiệu bình đẳng, thậm chí muốn đối xử với con người và động vật bình đẳng như nhau.[19]

Do chủ nghĩa bảo vệ môi trường thường bị chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản dẫn dắt, hơn nữa sau khi Liên-Xô và khối cộng sản Đông Âu bị giải thể, rất nhiều đảng viên cộng sản và lực lượng tàn dư của chủ nghĩa cộng sản trước kia bắt đầu tổ chức ra đảng xanh hoặc tham gia những đảng xanh đã hoạt động, khiến cho rất nhiều người trong đảng xanh đều bị lệch về phía tả trên hình thái ý thức, vì thế đã xuất hiện một từ gọi là “xanh tả” (Green Left).

Sau khi đảng cộng sản Liên-Xô sụp đổ, cựu tổng bí thư là Mikhail Gorbachev đã từng muốn tái xuất chính trường, nhưng rất không thuận lợi, thế là đã thay đổi trở thành người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường, khởi động thành lập nên “Hội chữ thập xanh quốc tế”. Đương nhiên, Gorbachev sẽ mang nhân tố chủ nghĩa cộng sản vào sự nghiệp bảo vệ môi trường của ông, trong ngôn từ của ông luôn mang theo ý cổ xúy thành lập chính phủ thế giới để có thể ngăn chặn thảm họa môi trường. [20]

Đảng cộng sản ở các quốc gia phương Tây trực tiếp tham gia các phong trào bảo vệ môi trường cũng không ít. Jack Mundey là một trong những người phát động phong trào “Lệnh cấm xanh” của Australia (Úc), bản thân ông ta cũng chính là thành viên đảng cộng sản Úc, vợ của ông ta là chủ tịch toàn quốc của đảng cộng sản Úc. [21]

Ngày 22/4 hàng năm là “Ngày trái đất thế giới”. Ngày trái đất đầu tiên, (thứ 4) ngày 22/4/1970, rất trùng hợp là ngày kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Lê-nin. Có phải là trùng hợp hay không? Cũng có thể là trùng hợp. Nhưng trong tình huống phong trào bảo vệ môi trường bị cánh tả dẫn dắt, thì rất nhiều người tin rằng đó không phải là trùng hợp.

1.6 Chủ nghĩa khủng bố sinh thái

Chủ nghĩa bảo vệ môi trường chịu ảnh hưởng của cánh tả, từ lúc mới sinh ra đã khá là cấp tiến. Nó có rất nhiều những nhánh cấp tiến, gồm khoa học sinh thái chuyên sâu (deep ecology), chủ nghĩa nữ quyền sinh thái (ecofeminism), sinh thái học xã hội (social ecology) và chủ nghĩa khu vực sinh vật (Bioregionalism) v.v.. Trong đó còn có một số tổ chức đặc biệt cấp tiến, gồm có các tổ chức khá nổi tiếng như “Ưu tiên Trái đất” (Earth First!), “Mặt trận giải phóng trái đất” (Earth Liberation Front) v.v., họ chọn dùng các hành động trực tiếp để ngăn chặn các hành vi phá hoại môi trường (như đặt bom và phóng hỏa), bị gọi là chủ nghĩa khủng bố sinh thái (eco-terrorism).

“Ưu tiên Trái đất” hưng khởi từ năm 1979, khẩu hiệu là “Bảo vệ mẹ trái đất, quyết không thỏa hiệp!” (No Compromise in Defense of Mother Earth!), chủ yếu là áp dụng các hành động trực tiếp nhắm vào việc chặt cây và xây đập nước v.v.. Một cách làm nổi tiếng chính là chọn dùng biện pháp “ngồi trên cây” –– ngồi dưới gốc cây hoặc trên thân cây –– để cấm chặt cây. Những cách làm của “Ưu tiên Trái đất” đã thu hút rất nhiều thành viên mới, bao gồm cả những phần tử cánh tả, chủ nghĩa vô chính phủ và những người chống lại môi trường văn hóa truyền thống. Năm 1992 những thành viên cấp tiến hơn trong đó đã khởi xướng một nhánh gọi là “Mặt trận giải phóng trái đất”, dùng biện pháp phóng hỏa. Cuối năm 2000, 9 biệt thự sang trọng trên đảo Long của Mỹ bị thiêu thành tro chỉ trong một đêm. Nguyên nhân là vì nó được xây dựng trong một vườn đào thiên nhiên. Mặt trận giải phóng trái đất, tổ chức khủng bố môi trường khét tiếng này, như thường lệ, sau khi phóng hỏa còn hiên ngang ghi lại dưới đất dòng chữ “nếu lại xây lại, chúng tôi lại đốt”. Năm 2005, Cục điều tra Liên bang Mỹ đã tuyên bố, “Mặt trận giải phóng trái đất” là mối đe dọa khủng bố lớn nhất trong nước ở Mỹ, nó đã gây nên hơn 1200 “sự kiện phạm tội”, tạo ra thiệt hại hơn 10 triệu USD. [22]

Mọi hành vi của họ sớm đã vượt qua giới hạn thông thường của các kiến nghị chính trị và các hệ tư tưởng khác nhau trong xã hội. Tà linh cộng sản dùng nhân tố “hận” để khiến cho người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường biến thành phần tử khủng bố bảo vệ môi trường không khác gì những phần tử khủng bố.

1.7 Mặt bất hòa bình phía sau của “Hòa bình xanh”

“Hòa bình xanh” được thành lập năm 1971 là tổ chức bảo vệ môi trường lớn nhất trên thế giới, trên 40 quốc gia trên thế giới đều có văn phòng của nó, thu nhập hàng năm hơn 350 triệu USD. “Hòa bình xanh” cũng là một trong những tổ chức bảo vệ môi trường cấp tiến nhất trên thế giới.

Paul Watson là người thuộc cộng đồng những người sáng lập Hòa bình xanh và đã rời khỏi tổ chức này năm 1977, ông từng miêu tả như sau, bí quyết thành công của David McTaggart (nguyên chủ tịch Hòa bình xanh) cũng chính là bí quyết thành công của tổ chức Hòa bình xanh: Không quan trọng cái gì thật sự là thật, chỉ quan trọng cái gì mà mọi người tin là thật……Truyền thông nói bạn là thế nào thì bạn chính là thế ấy. Hòa bình xanh trở thành thần thoại, đã trở thành công cụ để sinh ra thần thoại.” [23]

Patrick Moore cũng từng là một trong những người đồng sáng lập tổ chức bảo vệ môi trường Hòa bình xanh, từng bỏ rất nhiều công sức cho sự nghiệp bảo vệ môi trường. Ông này sau đó đã từ bỏ chức vụ ở “Hòa bình xanh”, nguyên nhân là do ông phát hiện về mặt chính trị, tổ chức này đã nhanh chóng ngả về cánh tả, [24] biến đổi thành một tổ chức cực đoan và có cả chương trình nghị sự chính trị, ví dụ, có ý thù địch với một loạt các hóa chất công nghiệp, các chính sách của nó dựa trên các mục đích chính trị hơn là khoa học. [25]

Vì đạt mục đích mà không từ thủ đoạn nào, đây là sách lược của những tổ chức bảo vệ môi trường cấp tiến bao gồm “Hòa bình xanh” trong đó. Về mặt này thì chủ nghĩa bảo vệ môi trường cấp tiến là hoàn toàn y hệt với chủ nghĩa cộng sản. Năm 2007, 6 thành viên “Hòa bình xanh” vì đột nhập và phá hoại một nhà máy nhiệt điện của Anh, đã tạo ra tổn thất lên đến 30 nghìn bảng Anh và bị khởi tố. Họ đã thừa nhận mưu đồ đóng cửa nhà máy điện, nhưng họ tự xưng việc làm này của họ là vì ngăn chặn thiệt hại lớn hơn (khí thải nhà kính gây ra thảm họa khí hậu). Tòa án cuối cùng phán xét hành vi của họ là vô tội. Trước đó “Hòa bình xanh” đã từng có rất nhiều lần thắng án như vậy, bao gồm việc phá hoại nhà máy điện nguyên tử, công ty ô tô thậm chí là nhà máy sản xuất máy bay chiến đấu v.v.. [26] Rất nhiều người có kiến thức lo lắng rằng, theo logic này, còn có giới hạn giữa hợp pháp và phi pháp nữa hay không? Chủ nghĩa Marx-Lê nin truyền thống lợi dụng tà thuyết Utopia để hợp pháp hóa việc giết người phóng hỏa và cướp đoạt tài sản; các biến thể của chủ nghĩa cộng sản khoác lên chiếc áo bảo vệ môi trường màu xanh là cổ xúy thảm họa môi trường, dùng nó để làm biến dị giá trị quan của con người. Phần trên đã trình bày thành viên “Hòa bình xanh” đã thành công trong việc thuyết phục bồi thẩm đoàn tiếp nhận “tính chính đáng” trong động cơ phạm tội của họ, chính là phản ánh việc người ta bị đầu độc trên diện rộng, đã tiếp nhận tà thuyết tự thị nhi phi (tưởng đúng mà sai). Khiến cho con người vứt bỏ những giá trị phổ quát mà Thần đã định ra, chính là thủ đoạn hủy diệt con người của ma quỷ.

2. Sự hoang đường của “đồng thuận” biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu là chủ đề nóng của xã hội ngày nay. Sự tranh luận của công chúng xung quanh chủ đề này cũng vô cùng nóng bỏng, dù là giới truyền thông, công chúng hay là giới chính trị, đều có những ý kiến khác nhau. Cách nói thường thấy nhất trong vấn đề này là “vì con người xả khí thải gây hiệu ứng nhà kính đã tạo ra sự nóng lên toàn cầu, và sẽ dẫn đến thảm họa khí hậu nguy hiểm”. Đồng thời nhấn mạnh rằng kết luận này là sự đồng thuận của các nhà khoa học (scientific consensus) hoặc là kết luận khoa học (settled sience). Trong mắt của một số tín đồ của chủ nghĩa môi trường, những ai phản đối kết luận này không những là “phản khoa học”, mà còn là “phản nhân loại”. Phần trên đã miêu tả lý do vì sao những thành viên của “hòa bình xanh” phá hoại nhà máy điện được phán vô tội, chính là vì đã mời được các chuyên gia nổi tiếng ủng hộ loại “đồng thuận” này đến làm chứng, tuyên bố rằng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính nhà máy điện này thải ra mỗi ngày dẫn đến hơn 400 loại động vật bị diệt hết v.v.

Giới khoa học thực sự đã đạt được sự đồng thuận này chưa? Richard Lindzen, thành viên Viện Hàn lâm Khoa học Mỹ và là nguyên giáo sư khoa khí quyển Học viện Công nghệ Massachusetts đã biểu thị trong bài viết của mình rằng “khoa học khí hậu vẫn chưa có kết luận”. [27] Một bài viết của Steven Koonin, nguyên Thứ trưởng Khoa học Bộ năng lượng Mỹ và là giáo sư của Đại học New York cũng nói “Khoa học khí hậu vẫn chưa có kết luận: Chúng ta còn lâu nữa mới có đủ tri thức để đưa ra một chính sách khí hậu tốt”. [28] Trong một bài viết khác ông cũng cảnh tỉnh độc giả rằng, “trên cơ bản, công chúng hoàn toàn không biết về những tranh luận kịch liệt trong giới khoa học khí hậu. Ở một hội nghị gần đây nhất của Phòng thí nghiệm Quốc gia, tôi đã chứng kiến hơn 100 nhà nghiên cứu từ chính phủ và các trường đại học tranh luận với nhau, cố gắng để tách bạch sự ảnh hưởng của con người với khí hậu ra khỏi sự biến đổi khí hậu tự nhiên; một số vấn đề mà họ tranh luận không phải là tầm phào, mà là về nhận thức căn bản của chúng ta [đối với khí hậu], ví dụ như trong suốt 20 năm qua sự dâng lên của mực nước biển đã giảm xuống, tuy bất ngờ nhưng biểu hiện rất rõ ràng”. [29]

Nói một cách tổng quát, trên tổng thể thì nhiệt độ bề mặt trái đất từ năm 1880 đến nay có tăng lên, việc nhân loại thải khí CO2 và các khí thải gây hiệu ứng nhà kính khác lên khí quyển đúng là có tác dụng gây nóng lên đối với trái đất –– trên cơ bản, thì các nhà khoa học đều không có ý kiến phản đối gì đối với việc này. Nhưng mà, vấn đề quan trọng nhất, cũng là trọng điểm tranh luận của các nhà khoa học là: sự nóng lên này là do nguyên nhân các hoạt động của con người gây ra hay là do nguyên nhân tự nhiên? Đến cuối thế kỷ 21 địa cầu sẽ nóng lên bao nhiêu? Con người có thể dự đoán biến đổi khí hậu tương lai không? Sự nóng lên có dẫn đến “thảm họa” hay không?

Tuy nhiên, nói từ một góc độ khác, giới khoa học tựa như thực sự đã đạt được một sự “đồng thuận” nào đó hoặc là hình thành được một “kết luận” nào đó trong vấn đề biến đổi khí hậu: Bởi vì tiếng nói phản đối sự “đồng thuận” có rất ít cơ hội được xuất hiện trên truyền thông và tạp chí học thuật.

Tiến sĩ vật lý Michael Griffin, cựu giám đốc Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA) khi được phỏng vấn trên đài truyền hình công cộng quốc gia năm 2007 đã nói: “Tôi không có chút nghi ngờ nào về xu thế nóng lên toàn cầu. Nhưng tôi không chắc rằng nó là hợp lý khi chúng ta cho rằng đây là một vấn đề cần phải giải quyết. Đi giả định rằng nó là một vấn đề, thì chính là đã giả định rằng trạng thái khí hậu trái đất ngày nay là tốt nhất, là khí hậu tốt nhất mà chúng ta có thể có hoặc đã từng có, chúng ta cần phải làm các biện pháp để đảm bảo rằng nó sẽ không thay đổi.” [30]

Ông đã giải thích thêm rằng, “đầu tiên, tôi không cho rằng con người có năng lực để đảm bảo khí hậu sẽ không thay đổi, lịch sử hàng triệu năm qua đều thể hiện rằng khí hậu biến đổi không ngừng; thứ nữa, tôi nghĩ tôi sẽ hỏi một vài người –– ở đâu và khi nào –– được ban cho đặc quyền, để đi quyết định rằng [cho rằng] loại điều kiện khí hậu đặc định này của chúng ta ngày nay, khí hậu hiện tại là khí hậu mà những người đó [cho là] tốt nhất. Tôi cho rằng điều này đối với con người mà nói là một lập trường tương đối ngạo mạn.” [31]

Mặc dù ông rất khiêm tốn biểu đạt lập trường khoa học, nhưng lập tức bị giới truyền thông và một số nhà khoa học khí hậu chỉ trích mạnh mẽ, thậm chí còn nói những lời nói của ông ấy đã biểu hiện ra thái độ “ngạo mạn”. Ngày hôm sau, dưới áp lực mạnh mẽ ông đã phải lên tiếng xin lỗi. [32]

Vài tháng sau sự việc trên, ông đã lên tiếng bình luận trong một cuộc phỏng vấn khác rằng: “cá nhân tôi cho rằng mọi người đã đi quá trong các cuộc thảo luận về biến đổi khí hậu, đến mức mà thảo luận những chủ đề này từ góc độ kỹ thuật đơn giản là bất hợp pháp. Nó dường như đã nhận được địa vị của tôn giáo, tôi cảm thấy rằng điều này thật đáng tiếc.” Quan điểm của ông đối với “đồng thuận khoa học” đã cho thấy cái gọi là sự “đồng thuận” trong vấn đề khí hậu, thực sự đó không phải là quá trình khoa học. Ông cho rằng khoa học phát triển tiến lên là kết quả của tranh luận: “bạn dựng nên một lý luận, công bố số liệu của bạn, hoàn thiện khái niệm của bạn, sau đó người khác bác bỏ nó, hoặc là cố gắng bác bỏ –– đây là phương thức phát triển của sự đồng thuận khoa học.” [33] Rất hiển nhiên, dùng trăm phương ngàn kế để ngăn cấm tranh luận, bản thân nó chính là đi ngược với tinh thần khoa học.

Giáo sư Lennart Bengsston nguyên chủ nghiệm Trung tâm Dự báo Thời tiết Mesoscale Châu Âu (ECMWF), viện sĩ Hội Khoa học Khí tượng Hoàng gia Anh, sau khi tham gia làm thành viên Ủy ban Cố vấn Học thuật (một viện nghiên cứu phản biện lý luận về sự nóng lên của khí hậu) của Diễn đàn Chính sách Nóng lên Toàn cầu (GWPF), vì có danh tiếng lớn trong lĩnh vực chuyên môn, nên đã nhận phải áp lực rất lớn cũng như sự quan tâm theo dõi của các đồng nghiệp trên toàn thế giới. Hai tuần sau đó ông đã buộc phải từ chức. Ông đã giải thích trong thư từ chức rằng: “áp lực tập thể rất lớn” khiến ông ấy “bắt đầu lo sợ cho sự an toàn và sức khỏe của bản thân”, “các đồng nghiệp không còn ủng hộ tôi, một số đồng nghiệp đang rút lui khỏi sự hợp tác đồng tác giả” v.v. “trong cộng đồng vốn dĩ hài hòa này của khoa học khí tượng, tôi hoàn toàn không lường trước được sẽ diễn ra loại sự việc này. Hiển nhiên những năm gần đây nó đã có sự thay đổi.” [34] Quan sát của Lennart Bengsston là đúng, “chuyển biến trong những năm gần đây” là kết quả của việc ngành khoa học này bị ma quỷ bắt cóc và thao túng.

Trên thực tế, cái gọi là đồng thuận khoa học trong vấn đề biến đổi khí hậu, đã biến một loại lý thuyết về biến đổi khí hậu trở thành giáo điều. Nó cũng là một tín điều quan trọng nhất của chủ nghĩa bảo vệ môi trường ngày này, không thể bao dung cho bất cứ sự thách thức nào. Những nhà khoa học, truyền thông và những nhà hoạt động của chủ nghĩa bảo vệ môi trường tiếp nhận tín điều ấy cùng nhau thổi phồng thảm họa và sự sợ hãi. Giáo điều này là công cụ quan trọng của ma quỷ đứng đằng sau chủ nghĩa bảo vệ môi trường để đe dọa nhân loại và khiến con người nghe theo sự sắp xếp của nó. Xoay quanh quá trình xây dựng và củng cố giáo điều này, chúng ta cũng luôn thấy được nanh độc vuốt sắc của ma quỷ cộng sản cũng như là gen di truyền “lừa dối” và “đấu tranh” của nó.

2.1 Lịch sử của “đồng thuận” khoa học

Năm 1988, Hội đồng về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc được thành lập (IPCC), một sứ mệnh quan trọng của nó là bình luận về các nghiên cứu khoa học đã có và khoảng 5 năm một lần đưa ra một tuyên bố chính thức về vấn đề biến đổi khí hậu, xây dựng “đồng thuận khoa học” trong vấn đề biến đổi khí hậu, đưa ra các căn cứ khoa học để phục vụ cho việc hoạch định chính sách. [35] Trong các báo cáo [của IPCC] thường liệt kê ra danh sách hàng nghìn người bao gồm các tác giả thứ nhất, đồng tác giả và chuyên gia thẩm định. Từ đó, kết luận báo cáo thường bị nói thành “đồng thuận” của hàng nghìn khoa học gia hàng đầu thế giới.

Năm 1992 của công ước khung về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc (UNFCCC, sau đây gọi tắt là Công ước khung) tuyên bố, muốn ổn định nồng độ của khí thải gây hiệu ứng nhà kính trong bầu khí quyển ở mức độ ngăn chặn việc hệ thống khí hậu phải chịu nhận những xáo trộn nguy hiểm đến từ con người (chú trọng đến giả thuyết đã công bố lúc đầu: biến đổi khí hậu chủ yếu là do con người gây ra, hơn nữa sẽ tạo nên nguy cơ nguy hiểm). Sau đó, IPCC được giao một nhiệm vụ: giám định ảnh hưởng các hoạt động của con người đối với khí hậu, tiếp đó là tác hại của biến đổi khí hậu đối với kinh tế xã hội và môi trường. [36] Giả thiết tiền đề mà Công ước khung tuyên bố bao hàm là: con người là thủ phạm gây ra nguy hiểm khí hậu, điều này cũng tương đương với việc hạn định phương hướng cho “giám định” của IPCC. Tiếp theo, nếu biến đổi khí hậu không gây ra nguy cơ nguy hiểm, hoặc là không phải là do con người gây nên, như vậy chính là không cần hoạch định bất cứ chính sách gì, vì vậy IPCC vốn được thiết lập để hoạch định chính sách cũng không có lý do để tồn tại. Xung đột này cũng đã giới hạn phương hướng tập trung của IPCC. [37]

Kết hợp với đoạn lịch sử nêu trên để xem xét, chúng ta không khó để lý giải những sự việc phát sinh xung quanh quá trình thành lập sự đồng thuận IPCC như dưới đây:

a) Báo cáo của IPCC đã cắt bỏ những mệnh đề về tính không chắc chắn

Trước buổi công bố báo cáo định kỳ (năm 1995) về biến đổi khí hậu lần thứ 2 của IPCC, tiến sỹ Frederick Seitz hiệu trưởng Trường đại học Rockefeller, cựu chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Mỹ, nhà vật lý học nổi tiếng thế giới, đã nhận được một bản sao chụp. Tiến sỹ Seitz phát hiện bản thảo sau khi được các nhà khoa học thẩm định thông qua và trước khi được xuất bản đã bị tiến hành thay đổi rất lớn, những mệnh đề về tính không chắc chắn liên quan đến ảnh hưởng của các hoạt động của con người đối với biến đổi khí hậu đều đã bị cắt bỏ. Tiến sỹ Seitz đã viết trong bài viết trên “Thời báo Wallstreet” như sau: “Trong hơn 60 năm là thành viên của giới khoa học Mỹ, bao gồm cả thời gian đảm nhiệm chức chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Mỹ và Hội trưởng Hội vật lý học Mỹ, tôi chưa từng thấy quá trình thẩm định ngang hàng nào thối nát khiến người ta bất an như thế này.” [38] Các đoạn văn bị cắt bỏ bao gồm:

“không có chứng cứ nghiên cứu thể hiện rõ ràng là chúng ta có thể quy kết nguyên nhân cụ thể của biến đổi “khí hậu” quan sát được cho sự gia tăng của khí thải nhà kính.”
“Cho đến tận bây giờ, không có nghiên cứu nào quy kết một phần hoặc toàn bộ nguyên nhân của biến đổi khí hậu quan sát được cho đến nay là do con người.”
“Bất kỳ tuyên bố nào nói rằng một sự thay đổi khí hậu lớn được phát hiện có thể tồn tại tranh luận cho đến khi sự không chắc chắn [của chúng ta] về sự biến đổi tự nhiên tổng thể của hệ thống khí hậu được giảm bớt.”

Mặc dù sau đó IPCC tuyên bố tất cả những sửa chữa đều được tác giả của nó đồng ý, nhưng loại sửa chữa này ít nhất đã bộc lộ rằng báo cáo đã bị tác động bởi nhân tố chính trị. Báo cáo định kỳ của IPCC tuyệt không tiến hành nghiên cứu mới, nó chủ yếu là tổng kết các nghiên cứu hiện có. Do trong các nghiên cứu hiện có có rất nhiều những quan điểm khác nhau, vì để đạt được sự “đồng thuận” đã định sẵn, báo cáo đã xóa bỏ những ý kiến phản đối trong kết luận cuối cùng.

Bản dự thảo đầu tiên của báo cáo định kỳ lần thứ 3 của IPCC tháng 4/2000 (TAR) đã chỉ ra rằng: “Con người đã tạo ra ảnh hưởng có thể nhận thấy đối với khí hậu toàn cầu.” Bản xuất bản vào tháng 10 sau đó đã biến thành: “Việc con người gia tăng thải khí thải nhà kính có lẽ có tác động rõ ràng đến sự nóng lên đo lường được trong 50 năm qua.” Sau đó trong tổng kết chính thức sau cùng, càng nhấn mạnh hơn nữa rằng: “Phần lớn sự nóng lên quan sát được trong 50 năm qua rất có thể [khoảng đến 90%] là gây ra do sự tăng lên của nồng độ khí thải nhà kính.” Lúc đó khi người phát ngôn của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc được hỏi về một số căn cứ khoa học của sự thay đổi có liên quan đến sự thay đổi về câu chữ này, ông đã trả lời rất thành thật rằng: “Không có [phát hiện] khoa học mới nào cả, nhưng những nhà khoa học hy vọng sẽ đưa ra những thông tin chính xác và rõ ràng với những nhà hoạch định chính sách.” [39]

Nói đơn giản là, Công ước khung đã bố trí cho IPCC một bài tập về nhà đã có đáp án rõ ràng, IPCC căn cứ theo yêu cầu mà trình lên các câu trả lời “phù hợp”.

b) Báo cáo của IPCC làm chắc chắn hơn “đồng thuận về thảm họa”

Giáo sư Paul Reiter của Viện Pasteur Pháp là một người có uy tín về bệnh sốt rét và các phương diện khác về bệnh truyền nhiễm do côn trùng, do không đồng ý với báo cáo của IPCC, ông đã buộc phải đe dọa khởi kiện đối với IPCC, mới có thể gỡ bỏ tên của mình ra khỏi cái gọi là danh sách tác giả “2000 chuyên gia hàng đầu thế giới” ủng hộ báo cáo của IPCC. Ông nói: “Báo cáo của IPCC có vẻ như là sự đồng thuận của tất cả những chuyên gia hàng đầu, đây không phải là sự thật.” [40] Trong lời làm chứng của ông trước Thượng viện Mỹ vào 25/4/2006, ông nói: “Điều khiến người ta đau đớn trong biện luận là, loại “khoa học” giả tạo trong diễn đàn công cộng đã nhận được sự tán thành của nhóm “chuyên gia” có tầm ảnh hưởng. Tôi ở đây đặc biệt nhắm đến Hội đồng chuyên về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc (IPCC). Cứ mỗi 5 năm, tổ chức Liên Hợp Quốc này xuất bản ‘đồng thuận của các chuyên gia hàng đầu thế giới’ trong các phương diện về biến đổi khí hậu. Không những quá trình lựa chọn các nhà khoa học khiến người ta nghi ngờ, mà loại đồng thuận này cũng chỉ là chính trị, mà không phải là khoa học.” [41]

Những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường một mực tuyên truyền côn trùng gây bệnh truyền nhiễm như bệnh sốt rét sẽ theo sự biến đổi nóng lên của khí hậu mà hoành hành. Đây cũng là luận điệu chủ yếu của IPCC. Báo cáo ngày 27/11/2007 của Bloomberg, “căn cứ báo cáo của Liên Hợp Quốc, sự nóng lên toàn cầu sẽ khiến hàng triệu người đối mặt với nguy cơ mắc bệnh sốt xuất huyết và sốt rét.” [42] Nhưng Giáo sư Paul Reiter không thừa nhận sự liên quan đơn giản giữa sự bùng phát bệnh truyền nhiễm và sự nóng lên của khí hậu.

Ông chỉ ra rằng, bệnh sốt rét hoành hành không phải chỉ ở vùng nhiệt đới. Bệnh sốt rét bộc phát quy mô lớn trong những năm 1920 ở Liên-Xô, thậm chí là thành phố Arkhangelsk ở gần Bắc Cực cũng có 30000 trường hợp mắc bệnh sốt rét, đã làm cho hơn chục nghìn người chết. [43] Theo một bài báo năm 2011 của tạp chí “Tự nhiên”, các nhà khoa học đã phát hiện rằng trong điều kiện nhiệt độ tăng cao thì khả năng truyền bệnh sốt rét của muỗi ngược lại lại giảm xuống thấp. [44] Điều này đã chứng thực lập luận của Giáo sư Paul Reiter.

Trải nghiệm rời khỏi IPCC của một nhà khoa học khác cũng cho thấy rõ ràng, “Đồng thuận về thảm họa” đã trở thành một bộ phận văn hóa vận hành của nó. Christopher Landsea, chuyên gia nghiên cứu bão của Cục Khí quyển Hải dương Mỹ là một tác giả chính của báo cáo định kỳ lần thứ tư của IPCC. Tháng 1/2005, ông đã rời khỏi IPCC. Ông đã nói trong thư công khai rằng: “Tôi cho rằng quá trình này được thúc đẩy bởi chương trình nghị sự được tưởng tượng trước, lại bị ảnh hưởng bởi khoa học không kiện toàn.” Ông khẩn cầu IPCC xác nhận rằng báo cáo này là dựa trên cơ sở tuân thủ nghiêm túc khoa học chứ không phải tạo tin đồn giật gân. [45]

Nhận thức của Landsea về mối quan hệ giữa biến đổi khí hậu và bão là có sự khác biệt với các tác giả khác trong tổ (họ không có sở trường chuyên môn về nghiên cứu bão). Những người kia không đếm xỉa đến sự thực mà nhấn mạnh rằng khí hậu nóng lên sẽ dẫn đến những cơn bão còn mãnh liệt hơn nữa. Landsea chỉ ra rằng những nghiên cứu trước đó cho thấy rõ rằng, từ những lưu trữ của lịch sử không thấy được loại quan hệ này, từ lý luận mà nói, cho dù là có liên quan cũng là rất nhỏ không đủ để đưa đến kết luận.

David Deming, giáo sư về Khoa học Trái Đất của Đại học Oklahoma vì đã công bố việc sử dụng lõi băng để tái tạo lại dữ liệu nhiệt độ lịch sử của Bắc Mỹ trong 150 năm trên tạp chí “Khoa học”, mà đã bị những người đề xướng lý thuyết “đồng thuận” xem là đồng đạo. Có một lần, một trong những tác giả chính của IPCC gửi thư điện tử cho ông nói: “Chúng ta nên xóa đi ghi chép về sự ấm áp thời trung cổ [trong biểu đồ ghi chép từ lịch sử].” [46] Sự ấm áp thời Trung cổ là thời kì khí hậu ở Bắc Đại Tây dương ấm lên trong những năm từ khoảng 950 đến 1150 sau công nguyên, xóa bỏ hiện tượng nóng lên này trong biểu đồ lịch sử biến đổi khí hậu có thể làm rõ rằng sự nóng lên hiện nay là “chưa từng có trong lịch sử”.

Những việc kiểu như thế rất nhiều, trong cuốn sách “Những lời nói dối bỏng tay”, Christopher C. Horner – nghiên cứu viên cao cấp của Cơ quan Nghiên cứu Cạnh tranh Doanh nghiệp Mỹ, đã liệt kê rất nhiều những chuyên gia nguyên là tác giả của IPCC những đã phản đối kết luận của IPCC hoặc các hoạt động bị chính trị hóa của nó. [47] Họ đã đưa ra những thách thức và nghi vấn đầy đủ lý lẽ và chứng cứ đối với cái gọi là “đồng thuận” của IPCC, điều đáng buồn là, dưới môi trường truyền thông và học thuật hiện nay, tiếng nói của họ bị đẩy ra ngoài rìa một cách không thương tiếc.

2.2 Xác lập và củng cố “đồng thuận”: Thống nhất tư tưởng trong giới khoa học

Việc xác lập và củng cố cái gọi là “đồng thuận” trong vấn đề biến đổi khí hậu, là một bước chủ yếu mà ma quỷ lợi dụng chủ nghĩa bảo vệ môi trường để khống chế nhân loại, phóng đại ý thức về thảm họa để trợ giúp cho việc biến dị giá trị quan của nhân loại, và cuối cùng là thành lập nên một chính phủ siêu cấp ở thế gian, thúc đẩy bước đi chủ yếu của chủ nghĩa cộng sản. Bước đi chủ yếu này là hoàn thành trong giới khoa học, nhưng đồng thời cũng đã mượn sức mạnh tổng hợp của truyền thông, chính phủ và bộ máy học thuật.

Bất cứ nhà khoa học nào dù là có uy tín cao đến đâu trong giới học thuật, một khi phát biểu công khai nghi ngờ cái gọi là giáo điều “đồng thuận”, lập tức sẽ đối mặt với áp lực cực lớn đến từ những cộng sự cho đến tất cả bộ máy học thuật, buộc phải đi theo sự điều phối của họ. Những người đã từng sống trong xã hội cực quyền cộng sản đều đã trải qua loại kinh nghiệm như vậy, chỉ khác là điều mà những người chịu áp lực đó nghi ngờ là giáo điều của đảng cộng sản.

Giáo sư David Bellamy là chuyên gia hoạt động môi trường nổi tiếng người Anh và là chủ tịch Hội Động vật Hoang dã Hoàng gia. Nhưng sau khi ông công khai phát ngôn rằng không tin tưởng giáo điều “đồng thuận” của lý thuyết nóng lên toàn cầu, Hội Động vật Hoang dã Hoàng gia đã ra tuyên bố thể hiện sự không hài lòng với ông. [48] Sau đó, ông đã không được bổ nhiệm chức chủ tịch của hội này nhiệm kỳ sau, những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường trước đây tôn kính ông đã chuyển sang cho rằng ông có vấn đề về trí tuệ, hoặc cho là ông đã nhận tiền của các công ty dầu hỏa. [49]

Henk Tennekes, chủ tịch Hội Khí tượng Hoàng gia Hà Lan, do không ủng hộ giáo điều “đồng thuận” trong vấn đề nóng lên của khí hậu, ông đã bị cách chức. Tương tự như vậy, Aksel Winn-Nelsen quan chức của Tổ chức Khí tượng Thế giới đã bị quan chức của IPCC vu oan cho là “công cụ của giới công nghiệp”; hai nhà nghiên cứu người Italia là Alfonso Sutera và Antonio Speranza đã không nhận được sự tài trợ của các quỹ nghiên cứu sau khi họ nghi ngờ về lý thuyết nóng lên của khí hậu. [50]

Patrick J.Michaels, chủ tịch nhiệm kỳ trước của Hiệp Hội Các nhà Khoa học Khí hậu Liên bang Mỹ và là nhà khoa học khí hậu của Trường đại học Virginia, trong tác phẩm “Khí hậu cực đoan: Khoa học nóng lên toàn cầu mà họ không muốn bạn biết”, đã liệt kê ra rất nhiều ví dụ về việc chủ nghĩa bảo vệ môi trường dùng các loại biện pháp chính trị để áp chế những phản đối khoa học trong việc đạt được “đồng thuận”. Bởi vì ông kiên trì [quan điểm] rằng khí hậu sẽ không dẫn đến thảm họa, loại lập trường lạc quan này và giáo điều “đồng thuận” không thống nhất với nhau, đến một ngày, ông được Thống đốc bang thông báo rằng không thể phát biểu về vấn đề nóng lên toàn cầu dưới thân phận là một nhà khoa học khí hậu của tiểu bang nữa. Cuối cùng ông đã chọn từ chức. George Taylor, một nhà khoa học khí hậu khác làm việc tại Trường đại học bang Oregon cũng đã gặp phiền phức như vậy, Taylor sau đó đã bị buộc phải từ chức. Tiến sỹ David Legates, cựu chủ nhiệm Trung tâm Nghiên cứu Khí hậu của Đại học Delaware, là nhà khoa học khí hậu của bang Delaware, tương tự cũng bị thống đốc bang thông báo rằng, không thể phát ngôn với thân phận là nhà khoa học khí hậu của tiểu bang trong vấn đề nóng lên toàn cầu. Mark Albright trợ lý khoa học khí hậu của bang Washington đã bị sa thải, vì mặc dù đã bị ông chủ nhắc nhở, ông vẫn gửi tất cả những hồ sơ ghi chép về tuyết rơi ở núi Cascades cho những phóng viên báo chí phỏng vấn và người dân ở tiểu bang qua thư điện tử, chứ không phải là lựa chọn một bộ phận dữ liệu (xem có vẻ như cho thấy khí hậu nóng lên) trong đó. [51] Đáng nói là, tiêu điểm của cuộc tranh luận này là lĩnh vực chuyên môn của các nhà khoa học khí hậu – vấn đề khoa học khí hậu mà không phải là vấn đề chính sách của tiểu bang. Ở các quốc gia cộng sản, những việc chính trị can thiệp thô bạo vào khoa học không phải là ít; ở các quốc gia phương Tây, ma quỷ lợi dụng chính trị chủ nghĩa bảo vệ môi trường để can thiệp vào tự do học thuật một cách không khiến cho người ta chú ý.

Rất ít thấy những tập san học thuật có bài nghiên cứu thể hiện quan điểm hoài nghi đối với giáo điều “đồng thuận”, hiện tượng từ những năm 1990 đã bắt đầu có rồi. Giáo sư Patrick J. Michaels đã bàn luận về bộ phim “Âm mưu nhà kính” trên kênh 4 truyền hình Anh năm 1990 như sau: nếu quan điểm của một người không được tiếp thu trên mặt chính trị thì đó chính là có phiền phức. Nếu quan điểm của một người không được chấp nhận về mặt chính trị, thì sẽ có rắc rối. Luận văn của ông không chỉ bị một tập san học thuật từ chối xuất bản, ông chất vấn biên tập của tập san rằng tại sao luận văn của ông không được xuất bản, đáp án ông nhận được là, luận văn của ông cần phải thông qua tiêu chuẩn đánh giá cao hơn những luận văn khác. Cần nhắc nhở rằng, căn cứ theo báo cáo năm 1990 của IPCC, nhận định khi đó là: mức độ nóng lên toàn cầu là “tương đương với sự thay đổi tự nhiên của khí hậu”. Do vậy, mặc dù quan điểm của Patrick J. Michaels là khác với quan điểm của rất nhiều những người khác, cũng không thể bị coi là cực kỳ “dị đoan”. Nhưng mục tiêu xây dựng “đồng thuận” đã được quyết định từ trước, ma quỷ đã chỉ huy tất cả các bên để hướng tới mục tiêu.

Sự thiên vị của các quỹ chính phủ đưa đến tác dụng thúc đẩy rất lớn đối với việc hình thành và củng cố “đồng thuận”. Giả thuyết nhân loại là tác nhân gây ra nóng lên của toàn cầu thậm chí dẫn đến thảm họa đã đẩy việc nghiên cứu biến đổi khí hậu tới vị trí cung cấp lời tư vấn cho người ra quyết định chính sách, vì thế những nghiên cứu ủng hộ giả thuyết này cũng theo đó mà nhận được rất nhiều tiền để nghiên cứu, một lượng lớn tương ứng những bài viết học thuật cũng được xuất bản. Nói theo cách ngược lại, điều này cũng đã cản trở các nhà khoa học thực hiện nghiên cứu, tìm hiểu các giả thuyết theo phương hướng khác. Giáo sư Bill Gray là người tiên phong trong nghiên cứu về bão của Mỹ đã phát hiện ra rằng, do ông đã có phê bình đối với giáo điều “đồng thuận” về lý luận khí hậu mà kế hoạch xin tài trợ cho nghiên cứu về bão của ông đột nhiên liên tiếp bị từ chối, nguyên nhân được đưa ra là: Nghiên cứu mà ông đề xuất không phải là trọng điểm nghiên cứu trước mắt. [52]

Tháng 3/2008, rất nhiều nhà khoa học đã hoài nghi với giáo điều “đồng thuận” trong vấn đề khí hậu đã tổ chức một hội thảo học thuật ở New York. Những nhà khoa học này chia sẻ rằng việc xuất bản các thành quả nghiên cứu của họ trên các tập san học thuật đều không hẹn mà cùng gặp phải những cản trở. Chuyên gia khí tượng Joseph D’Aleo, nguyên Chủ tịch Hội Khoa học Khí tượng Mỹ, đã chia sẻ rằng một số đồng nghiệp của ông không dám đến tham gia hội nghị này, vì lo ngại sẽ bị đuổi việc. Ông cho rằng “đại đa số những nhà khoa học ‘trầm lặng’ của khoa học khí hậu, khoa học khí tượng và các khoa học liên quan khác có lẽ không ủng hộ cái gọi là lập trường ‘đồng thuận’”. [53]

Năm 2015, giáo sư Judith Curry, Viện trưởng Viện Khoa học Khí quyển và Địa cầu của Học viện Công nghệ Georgia đã làm chứng tại Thượng viện Mỹ rằng, một nhà khoa học làm ở NASA đã chia sẻ với bà rằng: “Tôi đã tham gia một hội nghị nhỏ dành cho những nhà khoa học đến từ một số cơ quan liên đới với NASA, giám đốc cấp cao của chúng tôi đã nói, rằng vị lãnh đạo NASA của ông ấy nói, chúng tôi không nên cố công bố các luận văn đi ngược lại với luận điệu nóng lên toàn cầu, vì ông ấy (vị lãnh đạo của NASA) lo rằng [vì thế] mà ông ấy sẽ phải đối mặt với những dư luận ‘phản cảm’. [54]

Giáo sư Judith Curry đã công khai trong lời làm chứng của mình rằng, “nhà khoa học khí hậu nào phát biểu về tính không chắc chắn (của lý luận nóng lên toàn cầu) hoặc là quan điểm hoài nghi ở một mức độ nào đó, thì sẽ bị quy là ‘những người phủ nhận’ [từ này đến từ việc phủ nhận chủ nghĩa phát-xít đã thảm sát hàng loạt người Do Thái] hoặc ‘thương nhân giao dịch mờ ám’ (merchant of doubt, ám thị rằng đã nhận tiền từ giới công nghiệp nhiên liệu hóa thạch). Động cơ của họ bị xem như là hình thái ý thức, hoặc là vì đã nhận tiền từ giới công nghiệp hóa thạch. Bản thân tôi chính vì đã công khai thảo luận việc IPCC đã đối đãi với vấn đề về tính không chắc chắn như thế nào, mà bị quy là ‘kẻ theo dị giáo về khí hậu’ phản bội đồng nghiệp. Nhà khoa học khí hậu phải đối mặt với áp lực cực lớn khiến họ phải khuất phục trước cái gọi là ‘đồng thuận’. Loại áp lực này không chỉ đến từ các chính trị gia, mà còn đến từ cơ quan tài trợ liên bang, các trường đại học và các đoàn thể chuyên môn, cho đến cả những nhà hoạt động [chủ nghĩa bảo vệ môi trường] xanh và những nhà khoa học tiên phong. Động lực đến từ tiền bạc, danh tiếng và quyền lực đã làm cho loại đồng thuận này trở nên mạnh hơn rất rất nhiều.” [55]

Giáo sư Judith Curry là viện sỹ của Hội Khoa học Khí tượng Mỹ, từng giữ chức ủy viên Hội đồng Nghiên cứu Khí hậu thuộc Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Mỹ (National Research Council’s Climate Research Committee). Dù rằng bà có thành tích nổi trội trên mặt học thuật, nhưng vì không muốn tiếp tục chịu áp lực mà đã quyết định về hưu sớm. Do những năm gần đây bà phản đối “đồng thuận” của IPCC mà đã bị gán những từ ngữ ô uế thanh danh, như “người công bố hàng loạt những thông tin khí hậu giả”, “phản khoa học”, “người phủ định” v.v., những thứ này không chỉ đến từ truyền thông, mà còn đến từ những nhà khoa học và những nghị sỹ Quốc hội. Một nghị sỹ Quốc hội nào đó thậm chí thường gửi thư đến Viện trưởng Học viện công nghệ Georgia đề tra hỏi về động cơ của giáo sư Judith Curry. [56] Bà chia sẻ một nguyên nhân khác khiến bà về hưu sớm là bà cảm thấy thực sự không thể nói cho sinh viên và những người học hệ sau tiến sỹ (postdocs) nên nghiên cứu như thế nào trong vòng xoáy “điên cuồng của lĩnh vực khoa học khí hậu”. [57] Giáo sư Roger Pielke Jr. của Trường đại học Colorado đã từng hợp tác nghiên cứu vấn đề nóng lên của khí hậu cùng với giáo sư Judith Curry. Ban đầu ông làm việc ở Trung tâm Nghiên cứu Hợp tác Khoa học Môi trường của trường đại học này, mặc dù ông đồng tình với phần lớn kết luận trong “đồng thuận” của IPCC, nhưng chỉ vì ông đã chỉ ra số liệu không ủng hộ các sự kiện khí hậu cực đoan (như bão) sẽ chịu ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu mà ông cũng phải chịu áp lực tương tự. Cuối cùng ông đã chuyển sang Trung tâm Nghiên cứu Quản lý Thể dục của Trường đại học Colorado (Sports Governance Center). [58]

Giáo sư Roger Pielke Jr. chỉ ra rằng, kinh nghiệm từ trường hợp của giáo sư Judith Curry cho thấy, “dù là người giữ chức vị giáo sư suốt đời cũng không thể bảo vệ được tự do học thuật.” [59] Không ngạc nhiên khi Joanne Simpson, viện sỹ học viện kỹ thuật Mỹ, nguyên là nhà khoa học khí quyển kiệt xuất của NASA, cho tận đến khi gần về hưu mới công bố thái độ hoài nghi về giáo điều “đồng thuận” của bản thân: “Do tôi không còn lệ thuộc vào bất cứ tổ chức nào, cũng không nhận bất kỳ khoản tiền quỹ nào, nên tôi hiện tại có thể nói thẳng…” bà chia sẻ, “là một nhà khoa học, tôi giữ thái độ hoài nghi.” [60]

*********

Tài liệu tham khảo:[1] Đổng Trọng Thư:《Xuân Thu phồn lộ-Phục chế》,Quyển thứ tư,https://ctext.org/chun-qiu-fan-lu/fu-zhi-xiang/zh.

[2] 《Dật chu sách – đại tụ mổ》,https://ctext.org/lost-book-of-zhou/da-ju/zh.

[3] 《Lễ ký-tế lễ》,https://ctext.org/text.pl?node=61379&if=gb&show=parallel.

[4] Rupert Darwall, The Age of Global Warming: A History (London: Quartet Books Limited, 2013), Chapter 1.

[5] Wes Vernon, “The Marxist Roots of the Global Warming Scare,” Renew America, June 16, 2008, https://web.archive.org/web/20100724052619/http://www.renewamerica.com:80/columns/vernon/080616.

[6] Engels:《Chống Dühring》Chương 8 Phần thứ nhất,《Marx-Engels toàn tập》Trang 20(Thư viện chủ nghĩa Marx tiếng Trung),https://www.marxists.org/chinese/marx-engels/20/003.htm#8。

[7] Brian Sussman, Eco-Tyranny: How the Left’s Green Agenda Will Dismantle America (Washington D.C.: WND Books, 2012), 8-9.

[8] Quoted in Brian Sussman, Eco-Tyranny: How the Left’s Green Agenda Will Dismantle America, 10.

[9] Quoted in Brian Sussman, Eco-Tyranny: How the Left’s Green Agenda Will Dismantle America, 11.

[10] Brian Sussman, Eco-Tyranny: How the Left’s Green Agenda Will Dismantle America, 14-15.

[11] Brian Sussman, Eco-Tyranny: How the Left’s Green Agenda Will Dismantle America, 11.

[12] Wes Vernon, “The Marxist Roots of the Global Warming Scare,” Renew America, June 16, 2008, https://web.archive.org/web/20100724052619/http://www.renewamerica.com:80/columns/vernon/080616.

[13] Quoted in Brian Sussman, Eco-Tyranny: How the Left’s Green Agenda Will Dismantle America, 35.

[14] Wes Vernon, “The Marxist Roots of the Global Warming Scare,” Renew America, June 16, 2008, https://web.archive.org/web/20100724052619/http://www.renewamerica.com:80/columns/vernon/080616.

[15] John Bellamy Foster, “Marx’s Ecology in Historical Perspective,” International Socialism Journal 96, Winter 2002, http://pubs.socialistreviewindex.org.uk/isj96/foster.htm.

[16] James O’Connor, “Capitalism, Nature, Socialism: A Theoretical Introduction,” Capitalism, Nature, Socialism 1, no. 1 (1988): 11-38, http://www.vedegylet.hu/okopolitika/O’Connor – Capitalism, Nature, Socialim.pdf.

[17] Joel Kovel and Michael Löwy, “The First Ecosocialist Manifesto,” September 2001,http://green.left.sweb.cz/frame/Manifesto.html.

[18] Joel Kovel, The Enemy of Nature: The End of Capitalism or the End of the World? (London: Zed Books, 2002).

[19] Kevin Andrews, “The Ideological Drive behind the Greens,” ABC News, November 11, 2010, http://www.abc.net.au/news/2010-11-12/the_ideological_drive_behind_the_greens/41010.

[20] Mikhail Gorbachev, “We Have a Real Emergency,” The New York Times, December 9, 2009, http://www.nytimes.com/2009/12/10/opinion/10iht-edgorbachev.html; Mikhail Gorbachev, “What Role for the G-20?” The New York Times, April 27, 2009, http://www.nytimes.com/2009/04/28/opinion/28iht-edgorbachev.html.

[21] “Jack Mundey,” Sydney’s Aldermen, http://www.sydneyaldermen.com.au/alderman/jack-mundey/.

[22] Noel Moand, “A Spark That Ignited a Flame: The Evolution of the Earth Liberation Front,” in Igniting a Revolution: Voices in Defense of the Earth, eds. Steven Best and Anthony J Nocella, II (Oakland, CA: AK Press, 2006), 47.

[23] Leslie Spencer with Jan Bollwerk and Richard C. Morais, “The Not So Peaceful World of Greenpeace,” Forbes, November 1991, https://www.heartland.org/_template-assets/documents/publications/the_not_so_peaceful_world_of_greenpeace.pdf.

[24] Ted Thornhill, “Humans Are NOT to Blame for Global Warming, Says Greenpeace Co-founder, as He Insists There Is ‘No Scientific Proof’ Climate Change Is Manmade,” Daily Mail, February 27, 2014, http://www.dailymail.co.uk/sciencetech/article-2569215/Humans-not-blame-global-warming-says-Greenpeace-founder-Patrick-Moore.html#ixzz2vgo2btWJ.

[25] Patrick Moore, “Greenpeace Has Evolved into an Organization of Extremism and Politically Motivated Agendas,” The Wall Street Journal, April 22, 2008, https://www.wsj.com/articles/SB120882720657033391.

[26] John Vidal, “Not Guilty: the Greenpeace Activists Who Used Climate Change as a Legal Defence,” The Guardian, Sept 11, 2008, https://www.theguardian.com/environment/2008/sep/11/activists.kingsnorthclimatecamp.

[27] Richard Lindzen, “The Climate Science Isn’t Settled,” The Wall Street Journal, November 30, 2009, https://www.wsj.com/articles/SB10001424052748703939404574567423917025400.

[28] Steven Koonin, “Climate Science Is Not Settled,” The Wall Street Journal, September 19, 2014, https://www.wsj.com/articles/climate-science-is-not-settled-1411143565.

[29] Steven Koonin, “A ‘Red Team’ Exercise Would Strengthen Climate Science,” The Wall Street Journal, April 20, 2017, https://www.wsj.com/articles/a-red-team-exercise-would-strengthen-climate-science-1492728579.

[30] “NASA Administrator Not Sure Global Warming A Problem,” Space Daily, May 30, 2007, http://www.spacedaily.com/reports/NASA_Administrator_Michael_Griffin_Not_Sure_Global_Warming_A_Problem_999.html.

[31] Như trên。

[32] Alicia Chang, “NASA Chief Regrets Remarks on Global Warming,” NBC News, June 5, 2007, http://www.nbcnews.com/id/19058588/ns/us_news-environment/t/nasa-chief-regrets-remarks-global-warming/.

[33] Michael Griffin: “NASA at 50 Oral History Project,” NASA Johnson Space Center, September 10, 2007, https://www.jsc.nasa.gov/history/oral_histories/NASA_HQ/NAF/GriffinMD/GriffinMD_9-10-07.htm.

[34] “Lennart Bengtsson Resigns: GWPF Voices Shock and Concern at the Extent of Intolerance within the Climate Science Community,” The Global Warming Policy Foundation, May 5, 2014, http://www.thegwpf.org/lennart-bengtsson-resigns-gwpf-voices-shock-and-concern-at-the-extent-of-intolerance-within-the-climate-science-community/.

[35] Judith Curry, “Climate Change: No Consensus on Consensus,” CAB Reviews Vol 8, No 001, 2013, 1-9.

[36] Judith A. Curry, “Statement to the Committee on Science, Space and Technology of the United States House of Representatives,” Hearing on Climate Science: Assumptions, Policy Implications and the Scientific Method, March 29, 2017, https://docs.house.gov/meetings/SY/SY00/20170329/105796/HHRG-115-SY00-Wstate-CurryJ-20170329.pdf.

[37] Như trên。

[38] Frederick Seitz, “Major Deception on Global Warming,” The Wall Street Journal, June 12, 1996, https://www.wsj.com/articles/SB834512411338954000.

[39] Larry Bell, “The New York Times’ Global Warming Hysteria Ignores 17 Years Of Flat Global Temperatures,” Forbes, August 21, 2013, https://www.forbes.com/sites/larrybell/2013/08/21/the-new-york-times-global-warming-hysteria-ignores-17-years-of-flat-global-temperatures/.

[40] Christopher C. Horner, Red Hot Lies: How Global Warming Alarmists Use Threats, Fraud, and Deception to Keep You Misinformed (New York: Simon and Schuster, 2008) , 319.

[41] Paul Reiter, “Malaria in the Debate on Climate Change and Mosquito-Borne Disease,” Hearing Before the Subcommittee on Global Climate Change and Impacts of the Committee on Commerce, Science, and Transportation United States Senate, April 25, 2006, https://www.commerce.senate.gov/pdf/reiter-042606.pdf.

[42] James Tylor, “Mosquitoes Ignore Global Warming Predictions,” Forbes, October 5, 2011, https://www.forbes.com/sites/jamestaylor/2011/10/05/mosquitoes-ignore-global-warming-predictions/#7ace656c1b7d.

[43] Paul Reiter, “Malaria in the Debate on Climate Change and Mosquito-Borne Disease,” Hearing before the Subcommittee on Global Climate Change and Impacts of the Committee on Commerce, Science, and Transportation United States Senate, April 25, 2006, https://www.commerce.senate.gov/pdf/reiter-042606.pdf.

[44] Zoë Corbyn, “Global Warming Wilts Malaria,” Nature, December 21, 2011, https://www.nature.com/news/global-warming-wilts-malaria-1.9695.

[45] James Tylor, “Climate Scientist Quits IPCC, Blasts Politicized ‘Preconceived Agendas,’” The Heartland Institute, April 1, 2005, https://www.heartland.org/news-opinion/news/climate-scientist-quits-ipcc-blasts-politicized-preconceived-agendas?source=policybot.

[46] David Deming, “Statement to the U.S. Senate Committee on Environment & Public Works,” Full Committee Hearing on Climate Change and the Media, December 6, 2006, https://www.youtube.com/watch?v=u1rj00BoItw.

[47] Christopher C. Horner, Red Hot Lies: How Global Warming Alarmists Use Threats, Fraud, and Deception to Keep You Misinformed, 329.

[48] Jonathan Leake, “Wildlife Groups Axe Bellamy as Global Warming ‘Heretic’,” Times Online, May 15, 2005, https://web.archive.org/web/20080906161240/http://www.timesonline.co.uk/tol/news/uk/article522744.ece.

[49] Christopher C. Horner, Red Hot Lies: How Global Warming Alarmists Use Threats, Fraud, and Deception to Keep You Misinformed, 110-111.

[50] Như trên。

[51] Patrick J. Michaels and Robert C. Balling, Jr., Climate of Extremes: Global Warming Science They Don’t Want You to Know (Washington DC: Cato Institute, 2009), x-xiii.

[52] Christopher C. Horner, Red Hot Lies: How Global Warming Alarmists Use Threats, Fraud, and Deception to Keep You Misinformed, 73.

[53] “Climate Skeptics Reveal ‘Horror Stories’ of Scientific Suppression,” U.S. Senate Commettee on Environment and Public Works Press Releases, March 6, 2008, https://www.epw.senate.gov/public/index.cfm/press-releases-all?ID=865dbe39-802a-23ad-4949-ee9098538277

[54] Judith A. Curry, “Statement to the Subcommittee on Space, Science and Competitiveness of the United States Senate,” Hearing on “Data or Dogma? Promoting Open Inquiry in the Debate over the Magnitude of Human Impact on Climate Change,” December 8, 2015, https://curryja.files.wordpress.com/2015/12/curry-senate-testimony-2015.pdf.

[55] Như trên。

[56] Judith A. Curry, “Statement to the Committee on Science, Space and Technology of the United States House of Representatives,” Hearing on Climate Science: Assumptions, Policy Implications and the Scientific Method, March 29, 2017,

https://science.house.gov/legislation/hearings/full-committee-hearing-climate-science-assumptions-policy-implications-and.

[57] Scott Waldman, “Judith Curry Retires, Citing ‘Craziness’ of Climate Science,” E&E News, January 4, 2017, https://www.eenews.net/stories/1060047798.

[58] Rich Lowry, “A Shameful Climate Witch Hunt,” National Review Online. February 27, 2015, https://www.nationalreview.com/2015/02/shameful-climate-witch-hunt-rich-lowry/

[59] Scott Waldman, “Judith Curry Retires, Citing ‘Craziness’ of Climate Science,” E&E News, January 4, 2017, https://www.eenews.net/stories/1060047798.

[60] “U. S. Senate Minority Report: More Than 650 International Scientists Dissent Over Man-Made Global Warming Claims Scientists Continue to Debunk ‘Consensus’ in 2008,” U.S. Senate Environment and Public Works Committee Minority Staff Report (Inhofe), Dec 11, 2008, https://www.epw.senate.gov/public/_cache/files/8/3/83947f5d-d84a-4a84-ad5d-6e2d71db52d9/01AFD79733D77F24A71FEF9DAFCCB056.senateminorityreport2.pdf

Bản tiếng Hán: http://www.epochtimes.com/gb/18/9/4/n10688613.htm

Bản tiếng Anh: https://www.theepochtimes.com/chapter-sixteen-the-communism-behind-environmentalism-part-i_2781173.html

Bản dịch có thể được chỉnh sửa trong tương lai để sát hơn với nguyên tác.

Ngày đăng: 5-09-2019