Chương 13: Truyền thông – Ma quỷ biến truyền thông trở thành nơi phát tán lừa dối và đường thông cho tín tức ma tính (audio)
2. Truyền thông phương Tây là khu vực bị đảng cộng sản xâm nhập tàn phá nặng nề
3. Nhân viên làm truyền thông lệch về bên tả trên diện rộng
4. Truyền thông trở thành công cụ chính trị của chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tiến bộ
5. Biến điện ảnh thành tiên phong của văn hoá phản truyền thống
6. Dùng truyền hình để đưa tẩy não đến hàng nghìn nhà vạn hộ
7. Ma quỷ biến truyền thông thành chiến trường trọng yếu của cuộc chiến tranh toàn diện
Lời kết: Khôi phục trách nhiệm truyền thông
=========
Trong xã hội hiện đại, sức ảnh hưởng của truyền thông là cực lớn. Nhỏ thì từ một cộng đồng, nhóm dân tộc, lớn thì đến cả quốc gia cho đến toàn cầu, sự chú ý của người ta không lúc nào là không bị truyền thông lôi kéo. Thuận theo sự diễn biến của truyền thông, từ báo chí, tạp chí, đến phát thanh, điện ảnh, truyền hình, rồi đến truyền thông mạng, truyền thông xã hội, truyền thông cá nhân xuất hiện, hiệu quả quảng bá tuyên truyền của truyền thông về tốc độ quảng bá, phạm vi quảng bá, hiệu quả về thị giác thính giác đều được tăng cường rất nhiều, sức ảnh hưởng của truyền thông đối với xã hội và đại chúng cũng ngày một tăng lên.
Người ta dựa vào truyền thông để có được tin tức, phân tích dự báo mới nhất, trong biển tin tức, truyền thông chính là con mắt, đôi tai và thậm chí là bộ não của đại chúng. Truyền thông ảnh hưởng đến việc người ta có thể xem được những tin tức gì, giải mã tin tức ra sao, tiếp đến ảnh hưởng đến tư tưởng, quyết sách và hành động của con người. Bởi vì sự ỷ lại, tín nhiệm vào truyền thông cũng như về mặt nhận thức thì người ta dễ có quan niệm tiên nhập vi chủ (cái gì vào trước thì làm chủ), ảnh hưởng của truyền thông đối với con người có lúc lớn đến mức khiến người ta khó mà tin được. Đối với giai tầng tinh anh của xã hội nhất là những nhân vật chính trị mà nói, tin đưa của truyền thông chính là tiêu điểm của dân ý, pháo báo hiệu của hành động, vấn đề được truyền thông chú ý sẽ được hết sức quan tâm, còn không được đưa tin thì sẽ bị dẹp sang một bên đi vào quên lãng. Jefferson – cha đẻ của tuyên ngôn độc lập nước Mỹ từng nói: “Nếu như để tôi quyết định chúng ta nên có một chính phủ không báo chí, hay là một nền báo chí không chính phủ, thì tôi sẽ không do dự thà chọn cái sau.“[1] Từ đó có thể thấy được tầm quan trọng của truyền thông.
Truyền thông có thể là người bảo vệ cho giá trị phổ quát, cũng có thể là kẻ hiệp trợ tà ác. Từ căn bản mà nói, truyền thông là công cụ của xã hội, chức trách của nó là đưa tin một cách công chính, chuẩn xác và kịp thời những sự thực về các việc đại sự trên thế gian, khuông phù chính nghĩa, ức chế cái ác biểu dương cái thiện, sứ mệnh đó vượt khỏi tư lợi cá nhân, công ty và đảng phái.
Trong giới báo chí phương Tây, truyền thông là người bảo hộ cho sự thật và giá trị cốt lõi của xã hội, sở hữu địa vị cao thượng là “quyền lực thứ tư”, nhà báo được gọi là “vua không mũ miện”. Đó là lý tưởng và ký thác về tinh thần mà người làm truyền thông khát cầu.
Ông trùm truyền thông, người sáng lập giải Pulitzer – Joseph Pulitzer từng nói: “Nước cộng hoà của chúng ta và nền báo chí truyền thông của nó là cùng nhau hưng suy. Một nền truyền thông có năng lực, vô tư, lấy tinh thần công chúng làm chuẩn tắc, sở hữu những trí giả được huấn luyện tốt, năng lực giỏi, vừa có huệ nhãn để phân biệt rõ thị phi, vừa có dũng khí để chọn con đường lương thiện để đi, truyền thông như vậy có thể giữ gìn đạo đức công chúng mà chính phủ dựa vào để làm theo đạo nghĩa, không có đạo đức công chúng ấy, thì bất cứ chính phủ nào chẳng qua cũng chỉ là lừa gạt và trò cười. Truyền thông mà hận đời, bị mua chuộc, mê hoặc nhân tâm sẽ cùng một lúc khiến cho dân chúng nghi hoặc trùng trùng, chỉ chạy theo lợi, và bị kích động. Sức mạnh quyền lực vun đắp nên tương lai nền cộng hoà, chính ở trong tay những người làm truyền thông trong tương lai.“[2]
Nhưng khi đạo đức nhân loại phổ biến trượt dốc, khi đối diện với áp lực cường quyền và dụ hoặc của kim tiền, truyền thông cũng khó mà giữ cho bản thân trong sạch. Ở những quốc gia cộng sản, truyền thông đã trở thành nô tài của chính quyền, trở thành công cụ tẩy não, đồng lõa với kẻ giết người. Ở xã hội phương Tây, dưới sự thao khống của tà linh cộng sản, truyền thông cũng bị trào lưu tư tưởng cộng sản chủ nghĩa xâm nhập nghiêm trọng, người đại diện cho nó phát tán hình thái ý thức của chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi rộng, biến truyền thông trở thành công cụ quan trọng, phản truyền thống, phản đạo đức, để truyền bá những tin tức ma tính cũng như dối trá thù hận, thêm dầu vào lửa cho việc thói đời xuống dốc hàng ngày. Trách nhiệm truyền bá sự thật một cách chân chính, bảo vệ đạo đức lương tri của truyền thông thường thì lại bị vứt sang một bên. Việc nhìn rõ trạng thái của truyền thông, khôi phục trách nhiệm của truyền thông, vào thời thế hiện nay đã trở nên vô cùng quan trọng và bức thiết.
1. Truyền thông ở các quốc gia cộng sản là công cụ tẩy não
Từ khi mới bắt đầu đảng cộng sản đã coi truyền thông là công cụ tuyên truyền tẩy não. Năm 1847 trong “Điều lệ đồng minh những người cộng sản chủ nghĩa” Marx và Ăng-ghen đã đưa ra khái niệm “công tác tuyên truyền”, và yêu cầu các thành viên phải “Có nghị lực cách mạng và nỗ lực tiến hành công tác tuyên truyền” [3]. Trong những bài viết của mình, Marx và Ăng-ghen cũng thường xuyên sử dụng “Trận địa của đảng”, “Miệng lưỡi của đảng”, “Trung tâm chính trị”, “Công cụ dư luận” để biểu đạt tính chất và chức năng của truyền thông.
Lê-nin lợi dụng truyền thông để làm công cụ tuyên truyền, cổ động và tổ chức cách mạng. Ông ta lập ra các báo của chính phủ như “Báo sao hoả”, “Báo sự thật” tiến hành hoạt động tuyên truyền cổ động cách mạng. Sau khi Liên Xô Cộng sản đoạt được chính quyền, rất nhanh chóng liền sử dụng truyền thông về đối nội tiến hành tẩy não chính trị, khống chế nhân dân nước mình, về đối ngoại thì tiến hành tuyên truyền hình tượng và xuất khẩu cách mạng.
Cũng như vậy Trung cộng coi truyền thông như một công cụ dư luận của nền chuyên chính, là miệng lưỡi của đảng và chính phủ. Trung cộng biết rõ “báng súng – ngòi bút, đoạt lấy chính quyền, củng cố chính quyền chính là nhờ vào hai cái này.” [4] Truyền thông tuyên truyền cũng như báng súng vậy, là công cụ quan trọng để Trung cộng đoạt quyền và thống trị. Ngay từ thời kỳ ở Diên An, bí thư của Mao Trạch Đông là Hồ Kiều Mộc đã nêu ra nguyên tắc “đảng tính ở vị trí thứ nhất”, rằng báo đảng “từ trong mọi trang báo, mỗi một bài xã luận, mỗi một thông báo, mỗi một tin tức, phải đều có thể quán triệt quan điểm của đảng, kiến giải của đảng.”[5]
Sau khi Trung cộng thành lập chính quyền, khống chế lũng đoạn nghiêm ngặt tất cả mọi kênh truyền hình, phát thanh, báo chí, tạp chí, và cả sau này là Internet, coi nó như một công cụ nhồi nhét hình thái ý thức của đảng cộng sản và công cụ tẩy não, đả kích ý kiến trái chiều, uy hiếp đại chúng, bẻ cong và che đậy sự thật. Truyền thông bị kiểm duyệt nghiêm ngặt, người làm truyền thông nơm nớp sợ hãi, cẩn thận từng ly từng tí. Nếu như nhà báo can đảm biểu đạt ý kiến trái chiều, thì chờ đợi họ chính là kết cục vô cùng thê thảm. Bị kiểm duyệt không chỉ gồm truyền thông nhà nước, mà cá nhân công khai phát ngôn ở trên mạng hay trong nhóm riêng tư cũng đều bị giám sát.
Có một câu nói đã miêu tả một cách rất hình tượng vai trò của truyền thông dưới sự thống trị của Trung cộng: “Tôi là con chó của đảng, ngồi trước cửa nhà của đảng, đảng bảo cắn ai thì cắn người đó, bảo cắn bao nhiêu cái thì cắn bấy nhiêu cái.” Kỳ thực, đây nào chỉ dừng lại ở vấn đề cắn mấy cái, mỗi lần vận động chính trị, đều là làm dư luận trước, dùng dối trá kích động thù hận, rồi phối hợp với bạo lực, tàn sát, truyền thông trở thành bộ phận tổ hợp quan trọng trong cỗ máy giết người. Ví như trong thời kỳ “Lục tứ” năm 1989, Trung cộng tuyên bố sinh viên là “côn đồ bạo loạn”, ngang nhiên đường hoàng dùng quân đội đi “dẹp bạo loạn”, sau cuộc thảm sát “Lục tứ”, lại tuyên bố “Quân đội chưa từng nổ súng vào bất kỳ ai, quảng trường Thiên An Môn không có bất cứ thương vong nào.” [6] Khi trấn áp Pháp Luân Công, chính quyền đã bào chế ra cái gọi là “Tự thiêu ở Thiên An Môn” để giá hoạ cho Pháp Luân Công, khơi dậy thù hận trên toàn thế giới, đưa cuộc bức hại thăng lên một cấp.[7]
Người đứng đầu các cấp uỷ đảng của Trung cộng cực kỳ coi trọng công tác tuyên truyền, đội ngũ công tác tuyên truyền cực kỳ khổng lồ. Tính đến cuối năm 2010, cả nước Trung Quốc số nhân viên biên chế công tác trong hệ thống văn hoá tuyên truyền có hơn 1 triệu 300 nghìn người; trong đó, ban tuyên truyền ở ba cấp tỉnh thành huyện có chừng 56 nghìn người, đơn vị tuyên truyền văn hoá ở địa phương có chừng 1 triệu 200 nghìn người, đơn vị tuyên truyền văn hoá trung ương có chừng 52 nghìn người. Mà đây là còn chưa bao gồm số lượng khổng lồ những người phụ trách giám sát và khống chế dư luận trên mạng gồm cảnh sát mạng, điều tiết viên, dư luận viên và những người khác đóng các vai trò muôn hình muôn vẻ tham gia công tác tuyên truyền.
Những quốc gia có đảng cộng sản nắm quyền thì không một nước nào không hao phí lượng lớn tài nguyên để khống chế truyền thông. Trải qua bao nhiêu năm tà linh cộng sản vận hành, thì việc truyền thông ở quốc gia cộng sản làm miệng lưỡi của chính đảng cực quyền, lừa dối theo phương thức một chiều, đầu độc thế nhân không từ bất cứ thủ đoạn nào, thì khỏi cần phải nói.
2. Truyền thông phương Tây là khu vực bị đảng cộng sản xâm nhập tàn phá nặng nề
Vào thế kỷ trước trong thế trận đối kháng giữa phe cộng sản và xã hội tự do, tà linh cộng sản vẫn luôn dùng trăm phương nghìn kế để xâm nhập vào xã hội tự do, mà việc xâm nhập vào truyền thông các quốc gia phương Tây là một trong những phân đoạn quan trọng nhất. Thấy được sức ảnh hưởng to lớn của truyền thông Mỹ đến toàn cầu, bài viết này lấy nước Mỹ làm trọng điểm bàn luận sự khống chế của tà linh cộng sản đối với truyền thông.
Sau khi Liên Xô đoạt được chính quyền, nó đã phái gián điệp đi vào truyền thông phương Tây, hoặc lôi kéo những người cùng chí hướng, người đồng tình với chủ nghĩa cộng sản trong nội bộ các quốc gia phương Tây, mưu đồ khống chế quyền ngôn luận truyền thông phương Tây, ca ngợi chính quyền cộng sản bạo chúa, tô son trát phấn cho nền bạo chính, điên đảo thị phi trong khi mọi người bất tri bất giác [không để ý], tuyên truyền giả dối, thậm chí trực tiếp hoặc gián tiếp làm mê muội những nhân vật trọng yếu trong chính phủ phương Tây, ảnh hưởng tới quyết sách của chính phủ, làm ra những chính sách và quyết định có lợi cho Liên Xô.
Nghiên cứu phát hiện, rất nhiều gián điệp truyền thông dưới sự sai khiến của KGB thời Liên Xô cũ trực tiếp phục vụ trong các hãng truyền thông lớn danh tiếng ở Mỹ, như John Scott, Richard Lauterbach, Stephen Laird phục vụ cho những tạp chí “Time”… Họ lấy thân phận ký giả của những kênh truyền thông đó để đi lại với các chính khách, danh nhân, và lãnh đạo quốc gia, không chỉ ăn trộm các thông tin tình báo, mà còn ảnh hưởng đến những quyết sách trong rất nhiều những sự vụ quan trọng như chiến tranh, kinh tế, ngoại giao, chính trị v.v. [9]
Ký giả trú tại Mat-xcơ-va của “Thời báo New York” là Walter Duranty đã từng viết rất nhiều bài báo quan trọng có liên quan đến Liên Xô, và cũng nhờ sê-ri 13 phần bài báo về Liên Xô mà đoạt giải Pulitzer năm 1932, nhưng cựu đảng viên đảng cộng sản Mỹ là Jay Lovestone và ký giả nổi tiếng Joseph Alsop đều cho rằng Duranty là gián điệp của cục cảnh sát mật của Liên Xô.[10]
Trong bài báo viết về nạn đói lớn ở Ukraina thuộc Liên Xô cũ những năm 1932-1933, Duranty đã che giấu sự thật, thề thốt phủ nhận sự thực về việc nạn đói đã làm chết mấy triệu nhân dân Ukraina, ông ta tuyên bố: “tất cả những bài báo nói rằng Liên Xô hiện nay có nạn đói đều là phóng đại hoặc tuyên truyền ác ý”[11] Về sự nguy hại của bài báo hư giả đó, nhà lịch sử học, học giả lịch sử chính quyền Liên Xô nổi tiếng Anh quốc là Robert Conquest trong tác phẩm kinh điển “The Harvest of Sorrow” có viết thế này: “Là một ký giả nổi tiếng nhất của tờ báo nổi tiếng nhất thế giới lúc bấy giờ, việc Duranty phủ nhận nạn đói lớn lại được xem là chân lý. Ông ta không chỉ lừa gạt đọc giả của thời báo New York, mà còn bởi thanh danh của tờ báo, ông ta cũng đã ảnh hưởng đến cách nhìn nhận về Stalin và chính quyền Liên Xô của vô số người. Không nghi ngờ gì ông ta đã ảnh hưởng đến việc thừa nhận chính quyền cộng sản Liên Xô của tổng thống mới đắc cử Roosevelt.“[12]
Đại bản doanh ngành điện ảnh Mỹ là Hollywood cũng chịu sự xâm nhập của chủ nghĩa cộng sản và tư tưởng cánh tả, thậm chí có dạo còn thành lập chi bộ đảng cộng sản. Từ sau khi đảng viên cộng sản, thành viên quốc tế đệ tam là Willi Munzenberg đến nước Mỹ, ông ta đã bắt đầu thực thi lý niệm về phát triển sáng tác điện ảnh của Lê-nin, biến điện ảnh thành công cụ tuyền truyên truyền thông. Từ việc thu hút người dân Mỹ đến Liên Xô học tập sáng tác điện ảnh, đến việc người qua đào tạo có thể công khai tham gia vào ngành điện ảnh, đến việc đảng cộng sản thành lập chi bộ đảng trong ngành điện ảnh Mỹ, rồi đến việc người dân nước Mỹ ở thế giới tự do tự mình làm ra những bộ phim ca tụng chế độ cộng sản, sự khống chế và ảnh hưởng của Xô cộng đối với ngành điện ảnh Mỹ càng ngày càng sâu. Có tác giả chỉ ra, trong đoạn thời gian này, trong con mắt của rất nhiều người làm điện ảnh, Liên Xô là quốc gia lý tưởng của họ. Có nhà viết kịch bản thậm chí lúc bấy giờ còn gọi cuộc tiến công của Nazi (Đức quốc xã) vào Liên Xô là “tổ quốc bị tấn công”[13], trong bộ phim “Mission to Moscow” lúc bấy giờ công khai tuyên bố “Liên Xô và nước Mỹ truyền thống không có sự khác biệt về căn bản”[14].
Cũng như Liên Xô, hình tượng của Trung cộng trong xã hội tự do cũng có được lợi ích to lớn như thế là nhờ truyền thông và ký giả cánh tả, nổi bật nhất trong đó là ký giả cánh tả nước Mỹ Edgar Snow, Agnes Smedley và Anna Louise Strong.
Red Star over China của Snow (dịch là Ngôi sao đỏ chiếu rọi Trung Quốc) đã nguỵ tạo hình tượng quang huy của Mao Trạch Đông cũng như các quan chức cấp cao khác của Trung cộng, làm đẹp tội ác của chủ nghĩa cộng sản, ở phương Tây đã ra sức tuyên truyền chính diện [tích cực] cho Trung cộng. Bởi vậy Mao Trạch Đông nói: “Snow là người đầu tiên quét sạch con đường cho mối quan hệ hữu hảo cần thiết để kiến lập thống nhất chiến tuyến.” Smedley đã từng viết không ít những bài văn và thư tịch ca ngợi các lãnh đạo Trung cộng. Tác giả người Mỹ là Ruth Price trải qua 15 năm nghiên cứu chuyên sâu, từ tư liệu của Liên Xô cũng đã phát hiện những chứng cứ mạnh mẽ, chứng minh Smedley là gián điệp của Quốc tế Cộng sản, kích động cách mạng vũ trang ở Ấn Độ, và thu thập tình báo cho Liên Xô [16]. Còn Strong cũng viết một lượng lớn những bài viết ca ngợi Trung cộng. Bởi vì họ tuyên truyền cho hình tượng của Trung cộng là “công lao vĩ đại”, nên Snow, Strong và Smedley đều trở thành ba “cán bút đỏ” nước Mỹ trong tem kỷ niệm được Trung cộng phát hành.
3. Nhân viên làm truyền thông lệch về bên tả trên diện rộng
Đại bộ phận người Mỹ đều giữ thái độ hoài nghi về tính chính xác của truyền thông, hơn nữa đa số cho rằng truyền thông chủ lưu ở Mỹ về tổng thể mà nói thì khá lệch sang phe tự do (liberal). Điều tra cho thấy 47% người cho rằng truyền thông thiên về phái tự do, mà chỉ có 17% người cho rằng truyền thông thiên về phái bảo thủ [17]. Chẳng qua, người ta tự nhiên có nghi hoặc như thế này: nghề làm báo là một thị trường cạnh tranh kịch liệt, nghề truyền thông làm sao có thể xuất hiện việc thiên kiến một cách hệ thống được? Ngay như ký giả, biên tập có lập trường chính trị của tự họ và cách nhìn cá nhân về các vấn đề xã hội, điều đó không có nghĩa là việc đưa tin của họ xuất hiện sự thiên kiến, bởi vì đạo đức nghề nghiệp của ký giả là chú trọng công chính và công bằng khách quan, không nên chịu ảnh hưởng bởi sắc thái cá nhân; nếu như thật sự tồn tại sự thiên kiến một cách hệ thống, vậy các doanh nhân có thể thành lập kênh truyền thông mới mà không có sự thiên kiến, những kênh truyền thông mới này sẽ khiến cho kênh truyền thông thiên kiến bị phá sản.
Luận điểm này được rất nhiều người thường dùng để chứng minh rằng truyền thông không tồn tại thiên kiến một cách hệ thống, nhưng sự thực tuyệt không phải đơn giản như vậy. Học giả chính trị nước Mỹ là Tim Groseclose năm 2012 đã xuất bản cuốn sách ” Dịch về phía tả – thiên kiến của truyền thông phe tự do đã bẻ cong tư tưởng người Mỹ như thế nào” (Left Turn: How Liberal Media Bias Distorts the American Mind) đã dùng phương pháp khoa học xã hội nghiêm ngặt để phân tích khuynh hướng chính trị của các kênh truyền thông chủ yếu ở nước Mỹ, đã đưa ra kết luận, khuynh hướng chính trị bình quân của truyền thông nước Mỹ lệch xa về cánh tả so với khuynh hướng chính trị của người bầu phổ thông, và thiên về chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tiến bộ. So với chuẩn mực bình quân của truyền thông, những kênh truyền thông được gọi là chủ lưu lại tả khuynh còn nghiêm trọng hơn, lệch xa lý niệm chính trị của dân chúng phổ thông.[18]
Cuốn sách còn phân tích, do tuyệt đại bộ phận người làm truyền thông đều là người theo chủ nghĩa tự do, về mặt khách quan đã tạo thành áp lực đối với phái truyền thống trong giới truyền thông. Thiểu số những nhân sĩ theo phái bảo thủ đang làm việc trong truyền thông của phái tự do thì bị coi là “có hơi chút tà ác và không giống người” (mildly evil or subhuman), mặc dù không từ chức, nhưng cũng không dám công khai biểu đạt quan điểm chính trị của mình, càng không thể truyền đạt lý niệm của phái bảo thủ trong các bài viết hoặc trong các tiết mục sáng tác [19]. Do truyền thông tả khuynh trên diện rộng, những sinh viên có mang quan điểm của phái truyền thống không muốn lựa chọn ngành tin tức, tốt nghiệp xong cũng không muốn gia nhập công tác truyền thông. Những người làm truyền thông theo phái tự do ở trong vòng tròn đóng kín của tự họ mà tăng cường lý niệm chính trị giữa họ với nhau, coi dân chúng phổ thông là phàm phu tục tử ngoan cố không thay đổi, còn bản thân mình mới là những tinh anh dẫn dắt trào lưu thời đại, có lòng đồng cảm và là phần tử trí thức có lương tri.
Truyền thông chủ lưu không nhất định đại biểu cho ý dân chủ lưu, một cuộc điều tra vào năm 2016 của Gallup đã chứng tỏ điểm này. Cuộc điều tra cho thấy, trong dân chúng nước Mỹ thì phái bảo thủ chiếm 36%, vẫn hơn phái tự do chiếm 25% [20]. Cũng có nghĩa là, nếu như truyền thông phản ánh đúng sự thực lập trường của đại đa số dân chúng, vậy thì tình hình của toàn thể truyền thông hẳn sẽ không là tả khuynh. Sự tả khuynh quá mức của truyền thông hiển nhiên không phải là kết quả do dân ý thúc đẩy, mà là một hiện tượng không bình thường. Có thể suy diễn thêm một bước nữa rằng, đại bộ phận truyền thông chủ lưu không phải đang báo cáo một cách công chính, mà là chịu sự thúc đẩy của nghị trình chính trị ở đằng sau, chủ động dẫn dắt độc giả chuyển sang cánh tả. Điểm này cũng có thể được thấy rõ từ trong điều tra Gallup đề cập trên đây, dân chúng về tổng thể đang chuyển sang cánh tả. Năm 1996 chênh lệch tỷ lệ giữa phái bảo thủ và phái tự do là 22%, đến năm 2014 chỉ còn 14%, còn đến năm 2016 chỉ còn 11%. Tỷ lệ phái bảo thủ vẫn luôn giữ ổn định, trong khi những người thuộc phái trung gian thì rất nhiều chuyển sang cánh tả, trở thành phái tự do. Sự thay đổi này, không thể không nói là có quan hệ với sự tả khuynh quá mức của truyền thông chủ lưu, dẫn dắt dân chúng chuyển sang cánh tả. Do vậy, mặc dù truyền thông xuất hiện thiên kiến một cách hệ thống, nó vẫn có thể thông qua việc chủ động dẫn dắt để tạo ra những nhóm độc giả có cùng sự thiên kiến, từ đó duy trì sự sinh tồn của bản thân kênh truyền thông.
Tỷ lệ đảng phái trong những người làm truyền thông cũng có thể thuyết minh một số vấn đề. Thông thường cánh tả (hoặc phái tự do) nghiêng về đảng dân chủ, còn phái bảo thủ nghiêng về đảng cộng hoà. Theo điều tra xã hội năm 2014 của tờ “Bưu điện Washington” của nước Mỹ, trong những người làm truyền thông nước Mỹ, có 28.1% tự xưng là đảng dân chủ, 7.1% tự xưng là đảng cộng hoà, chênh nhau 4 lần [21]. Trong những tờ báo và kênh truyền hình lớn, cánh tả chiếm tuyệt đại đa số, từ người sở hữu đến ban biên tập truyền thông, khuynh hướng đưa tin đều thể hiện rõ tả khuynh. Trong kỳ bầu cử tổng thống Mỹ năm 2016, trong 100 tờ báo lớn nhất nước Mỹ, có 57 tờ công khai ủng hộ ứng viên tổng thống của đảng dân chủ, lượng phát hành vượt quá 13 triệu, còn ủng hộ ứng viên tổng thống của đảng cộng hoà chỉ có 2 tờ báo, lượng phát hành chỉ vỏn vẹn 3 triệu [22].
Tại sao truyền thông lại tả khuynh như vậy? Một nguyên nhân rất quan trọng chính là thời những năm 60 của thế kỷ trước nước Mỹ chịu ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng cộng sản, đã xảy ra những phong trào xã hội cánh tả cấp tiến (radical) với quy mô lớn, những sinh viên cấp tiến kia về sau này bỗng chốc trở mình tiến vào những lĩnh vực như truyền thông, học thuật, thượng tầng xã hội, cơ cấu chính phủ, nghệ thuật, và giành lấy quyền phát ngôn.
Trong trường đại học, các giáo sư thuộc cánh tả chiếm tuyệt đại đa số, hình thái ý thức cánh tả sâu đậm trong ngành báo chí, ngành văn học tự nhiên cũng ảnh hưởng đến sinh viên. Tiền lương của công việc ngành báo chí cũng không phải thật là cao, rất nhiều người muốn tiến vào ngành nghề này vốn là có một cảm giác về sứ mệnh của chủ nghĩa lý tưởng, tà linh cộng sản đã dùi sơ hở ấy, khiến những kênh truyền thông cực quan trọng âm thầm trở thành căn cứ địa của cánh tả.
Ngoài truyền thông báo chí, điện ảnh truyền hình cũng là nơi gặp tai hoạ, có thể nói Hollywood của ngày hôm nay đã trở thành đại bản doanh của cánh tả. Nhà làm phim tả khuynh dựa vào chế tác tinh xảo và kỹ xảo phim thành thục, đã xúc tiến lý niệm cánh tả ở xã hội, và lan ra toàn cầu. Chủ đề điện ảnh thường xuất hiện những nội dung công kích chủ nghĩa tư bản và cái gọi là áp bức giai cấp, ca ngợi những hành vi phản đạo đức như đồng tính luyến ái cho đến việc truy cầu quyền bình đẳng, tâm lý chống Mỹ phức tạp.
Tác giả người Mỹ Ben Shapiro đã phỏng vấn lượng lớn những minh tinh ở Hollywood và những nhà làm phim rồi viết thành cuốn sách “Tuyên truyền khung giờ vàng – câu chuyện chân thực về Hollywood: Cánh tả chiếm lĩnh màn ảnh của bạn như thế nào”. Một nhà làm phim nổi tiếng nói rằng trong nghề này phái tự do “100% chiếm chủ đạo, bất kể người nào muốn phủ định điều này thì quả đúng là đang đùa, hoặc không nói thật”. Khi được truy vấn có phải sự khác nhau về quan điểm chính trị sẽ tạo thành trở ngại để gia nhập nghề hay không, câu trả lời là “tuyệt đối đúng”. Một nhà làm phim thẳng thắn thừa nhận, Hollywood thông qua tiết mục để xúc tiến chủ trương chính trị của phái tự do, ông cho biết, “trên thực tế tôi vô cùng tán đồng với điều này”. Một vị giám đốc điều hành khi đàm luận về điện ảnh hí kịch hiện nay có nói rằng, trong các tiết mục thì “chỉ có một quan điểm, đó chính là góc nhìn của chủ nghĩa cực tiến bộ”[23]. Một nhà sản xuất sê-ri phim tài liệu về đề tài cảnh sát hình sự nổi tiếng thừa nhận rằng, trong các tiết mục ông cố ý thể hiện ra thật nhiều những cảnh phim mà người da trắng phạm tội, bởi vì ông không muốn để người xem hình thành thành kiến (chủng tộc) tiêu cực (chú thích: trong ngôn ngữ của “đúng đắn chính trị”, nếu miêu tả tộc duệ thiểu số là tội phạm thì sẽ bị chỉ trích là phân biệt chủng tộc)[24].
Shapiro cho rằng, một nguyên nhân dẫn đến hiện tượng ngành điện ảnh truyền hình thiên tả, đó là “mối quan hệ thân thiết” trong ngành này là dựa trên cơ sở hình thái ý thức. Bạn bè tiến cử người bạn có cùng ý thức hình thái làm việc. Ông kinh ngạc về việc nhóm người Hollywood không hề giấu diếm chút nào sự kỳ thị nghề nghiệp chống lại phe bảo thủ của họ, và chỉ ra rằng chính những người chủ trương khoan dung và đa nguyên hóa này lại không có sự khoan dung đối với hình thái ý thức đa nguyên.
4. Truyền thông trở thành công cụ chính trị của chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tiến bộ
Cha đẻ của giáo dục báo chí, người sáng lập học viện báo chí sớm nhất trên thế giới là học viện báo chí Missouri – ông Walter Williams năm 1914 đã lập ra “Tín điều của nhà báo” (Journalist’s Creed) nổi tiếng, quy định của tín điều bao gồm trung thành với đại chúng, rõ ràng, chính xác, công bằng, kính uý Thượng đế, không chịu chi phối của sự kiêu ngạo và ham muốn quyền lực, không tìm cách lấy lòng mọi người, tôn trọng độc giả [26]. Nhưng từ sau những năm 60 thế kỷ trước, chủ nghĩa tiến bộ ở Mỹ trở nên phổ biến tràn lan, đã ảnh hưởng sâu rộng đến truyền thông nước Mỹ, tuyên truyền đã thay thế cho khách quan, đưa tin của chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tiến bộ đã thay thế cho công bằng. Chính như cuốn sách này đã nhiều lần chỉ ra, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tiến bộ là sự ngụy trang mới của chủ nghĩa cộng sản.
Trong nghiên cứu kinh điển “tinh anh truyền thông”, tác giả phát hiện, đối với những lần đưa tin có vấn đề gây tranh cãi thì nhà báo đã phản ánh thái độ và bối cảnh giáo dục của bản thân họ, đồng thời, chính trị phe tự do chiếm đại đa số trong phòng tin tức đã đẩy việc đưa tin sang phương hướng chủ nghĩa tự do [27].
Học giả báo chí Jim A. Kuypers sau khi nghiên cứu về diễn biến trong 200 năm của truyền thông báo chí nước Mỹ cũng thừa nhận rằng, truyền thông chủ lưu ngày nay về mặt tổ chức và trong thực tiễn đưa tin đều là chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tiến bộ. Ông nhắc đến việc một người biên tập của một toà báo lớn cánh tả nói rằng: “Chúng tôi thường xuyên mang theo chủ nghĩa tự do trong tay áo, không chấp nhận các phương thức sinh hoạt và quan điểm khác… Chúng tôi không ngại nói thẳng: nếu như anh làm việc ở đây, thì buộc phải là đồng loại với chúng tôi, anh buộc phải theo chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tiến bộ.“[28] Trong một nghiên cứu khác, Kuypers phát hiện, khi đưa tin về rất nhiều các vấn đề xã hội như chủng tộc, cải cách phúc lợi, bảo vệ môi trường, kiểm soát súng, truyền thông chủ lưu đều thiên lệch về chủ nghĩa tự do.[29]
Sau khi truyền thông thiên tả chiếm cứ địa vị chủ đạo, đã sinh ra ảnh hưởng rất lớn đối với môi trường chính trị ở nước Mỹ. Truyền thông rất dễ dàng trộn lẫn lộn khuynh hướng chính trị của mình vào tin tức rồi bày ra cho công chúng. Cựu ký giả của CBS là Bernard Goldberg trong một bài báo bình luận trên tờ “Nhật báo phố Wall” năm 2001 có nói, phát thanh viên của báo chí chủ lưu có thiên kiến nặng nề như vậy, đến mức họ “thậm chí không biết thế nào gọi là thiên kiến của chủ nghĩa tự do”[30]
Đối với người phương Tây coi trọng thành tín mà nói, khi xem một số truyền thông chủ lưu và tờ báo nghiêm túc, trong tâm về cơ bản là không có đề phòng. Rất nhiều khi, họ cho rằng đương nhiên tin tức báo cáo truyền thông là khách quan, toàn diện, phân tích của chuyên gia là phân tích nghiêm túc dựa trên tư liệu đáng tin cậy. Cảm giác tín nhiệm này, một cách bất tri bất giác đặt họ dưới sự tẩy não của truyền thông thiên tả, truyền thông trở thành cơ sở quan trọng để bồi dưỡng thế lực thiên tả.
Truyền thống của các quốc gia tự do phương Tây là coi trọng tính chân thực, khách quan, công chính của truyền thông, bởi vậy trong tình huống thông thường truyền thông sẽ không sử dụng phương thức biên tạo tin giả để lừa gạt công chúng (hiện nay tin giả hoành hành là một tình huống cực đoan khác thường), mà là sử dụng thủ đoạn tương đối phức tạp mờ mịt, chủ yếu bao gồm:
Thứ nhất, báo cáo có tính lựa chọn: Mỗi ngày trên thế giới xảy ra hàng nghìn vạn sự kiện, những sự kiện nào sẽ tiến vào tầm nhìn và ý thức của đại chúng, những sự kiện nào sẽ trôi đi không dấu vết, hầu như hoàn toàn nằm ở sự lựa chọn của truyền thông. Về ý nghĩa này, truyền thông hiện đại có quyền lực rất lớn. Bởi phần lớn truyền thông và các nhân viên làm nghề truyền thông chịu ảnh hưởng của hình thái ý thức cộng sản chủ nghĩa, trong tin đưa xâm nhập càng ngày càng nhiều sắc thái về hình thái ý thức. Trong báo cáo truyền thông, các loại trào lưu tư tưởng tả khuynh chiếm chủ đạo, chẳng hạn “công bằng xã hội”, “bình đẳng”, chủ nghĩa nữ quyền được đưa tin tích cực trên diện rộng, còn đối với tội ác của chủ nghĩa cộng sản thì lại điểm xuyết nhợt nhạt. Cựu chủ tịch hạ nghị viện Mỹ Newt Gingrich từng phê bình việc truyền thông thiên tả có hảo cảm đối với chủ nghĩa cộng sản, bọn họ từ chối đối diện với bằng chứng về sự tàn bạo vô cùng vô tận của chủ nghĩa Marx, mà thường xuyên giải tội cho chủ nghĩa Marx.[31]
Đưa tin có chọn lựa đại thể có 3 loại tình huống. Một là, chọn lựa đối với sự kiện, tức là chỉ đưa tin hoặc chủ yếu đưa tin những sự kiện nào mà có lợi đối với việc dẫn dắt người đọc tiếp nhận hình thái ý thức cánh tả. Thứ hai, chọn lựa về bối cảnh sự kiện, tức là không phải đưa tin toàn diện nguyên nhân hậu quả của sự kiện, mà chỉ đưa tin bộ phận bối cảnh mà có lợi cho việc chứng minh cho hình thái ý thức cánh tả. Thứ ba, chọn lựa về bình luận, tức là chỉ bàn luận những quan điểm mà có lợi cho việc chứng minh những cá nhân hoặc đoàn thể theo hình thái ý thức cánh tả, còn đối với những quan điểm tương phản thì điểm xuyết qua loa. Tác giả Groseclose của cuốn sách “chuyển sang cánh tả” nhắc đến trong phần trước đã viết: “Mỗi một lỗi đã phạm bởi vì viết ra, đều đối ứng với hàng trăm thậm chí hàng ngàn lỗi bởi không viết mà phạm – những lỗi mà nhà báo lựa chọn những sự thực và sự kiện mà chỉ có một phe phái thế lực chính trị muốn đề cập mà thôi.“
Thứ hai, định hướng dư luận (agenda-setting): Những năm 60 thế kỷ trước, các nhà nghiên cứu truyền thông đề xuất một lý luận có ảnh hưởng sâu rộng, tức là chức năng định hướng dư luận. Bernard Cohn đã biểu đạt đơn giản rõ ràng như sau: truyền thông “có lẽ không cách nào chi phối cách người ta nghĩ về vấn đề, nhưng có thể ở mức độ tương đối lớn quyết định việc độc giả sẽ nghĩ về vấn đề gì” [33]. Cũng có nghĩa là, truyền thông có thể thông qua các biện pháp như số lượng đưa tin, hoặc qua biện pháp duy trì theo dòng một loại sự kiện, cường điệu tầm quan trọng của vấn đề nào đó, đồng thời làm nhạt bớt một số vấn đề khác cũng quan trọng không kém thậm chí là quan trọng hơn. Những vấn đề như quyền lợi của người chuyển giới chỉ có số ít công chúng quan tâm thì lại trở thành điểm nóng thu hút sự quan tâm của truyền thông, chính là ví dụ cho chức năng định hướng dư luận của truyền thông. Một ví dụ khác, vấn đề ấm lên toàn cầu trở thành vấn đề quan trọng thu hút sự quan tâm của truyền thông và giới chính trị, là kết quả của việc truyền thông và những thế lực chính trị khác trường kỳ chung sức vận hành nhịp nhàng.
Thứ ba, sử dụng đóng khung tư duy đánh lạc hướng (framing): Có những sự kiện ảnh hưởng lớn quá, khi truyền thông không thể làm ngơ như không thấy, bèn sử dụng cách đóng khung tư duy đánh lạc hướng, giành lấy quyền giải thích đối với những sự kiện này. Phong trào giải phóng tình dục vào những năm 60 thế kỷ trước và chính sách phúc lợi quốc gia làm tăng nhanh sự tan rã của gia đình, làm tăng thêm những hiện tượng như nghèo đói và phạm tội, nhưng cánh tả lợi dụng truyền thông, Hollywood đắp nặn hình tượng “bà mẹ đơn thân” kiên cường, tự lập, che đậy đi vấn đề xã hội thật sự ở đằng sau. Một số truyền thông lên án việc “người da trắng địa vị cao nhất ” một cách rùm beng, đem việc kinh tế và địa vị xã hội thấp kém của một số dân tộc thiểu số nói là kết quả của sự kỳ thị mang tính chế độ, những điều này đều có thể nói là kết quả của việc chung sức hợp tác giữa truyền thông và những thế lực chính trị khác.
Một biểu hiện cụ thể của việc sử dụng đóng khung tư duy đánh lạc hướng là khi đưa tin thì chuẩn bị trước chủ đề, ký giả hoặc biên tập viên đã có thái độ đã định về vấn đề từ trước đó, khi ký giả viết bài, không phải là từ sự thực mà trích xuất ra câu chuyện và quan điểm, mà là ngược lại, chủ đề đi trước, rồi dùng sự kiện tin tức giống như chất dẻo đắp nặn thành dạng theo nhu cầu của mình, để chứng tỏ thành kiến của bản thân mình.
Thứ tư, dùng “Đúng đắn chính trị” tiến hành tự kiểm duyệt bản thân: Đúng đắn chính trị là cảnh sát tư tưởng của ma quỷ, khống chế đối với truyền thông đại chúng nghiêm ngặt nhất. Rất nhiều kênh truyền thông đều có sổ tay “đúng đắn chính trị” thành văn hoặc không thành văn, quy định những vấn đề nào được đưa tin, những vấn đề nào thì không được đưa tin, hoặc chỉ được đưa tin ở mức độ nào đó. Do cái gọi là lập pháp về “ngôn luận thù hận” (hate speech), truyền thông của châu Âu không dám đưa tin khách quan về tội phạm di dân, mặc dù tội phạm di dân đã trở thành vấn đề xã hội rất lớn, uy hiếp sự an toàn ổn định của những quốc gia này. Truyền thông nước Mỹ cũng rất dè dặt đối với tội phạm di dân, không muốn đề cập đến thân phận di dân của kẻ phạm tội.
Thứ năm, dán những nhãn hiệu có ý chê bai để hạ thấp ảnh hưởng của phái bảo thủ: Nghiên cứu phát hiện, truyền thông phái tự do xuất phát từ nhu cầu “đưa tin cân bằng”, không thể không viện dẫn quan điểm của những nhân sĩ phái bảo thủ hoặc những bộ óc của phái bảo thủ, nhưng khi viện dẫn quan điểm của họ, thông thường đều sẽ thêm vào một nhãn hiệu, chẳng hạn “phái bảo thủ”, “cánh hữu”, “cánh hữu tôn giáo” v.v., ám thị quan điểm của họ là xuất phát từ hình thái ý thức bảo thủ, bởi vậy nên có sự thiên kiến, thậm chí không đáng tin. Còn khi viện dẫn những nhân sĩ phái tự do hoặc bộ óc của phái tự do, thì thông thường họ sử dụng những tiêu đề trung tính hoặc có mang theo ý nghĩa khẳng định, chẳng hạn học giả, chuyên gia v.v., ám thị quan điểm của họ là trung lập, khách quan, lý tính, đáng tin.
Thứ sáu, sáng tạo ra ngôn ngữ “đúng đắn chính trị”, ảnh hưởng tư tưởng con người một cách âm thầm lặng lẽ: Truyền thông phương Tây và giới chính trị, giới học thuật cánh tả liên thủ sáng tạo ra một bộ ngôn ngữ đúng đắn chính trị, số lượng những từ ngữ này cực kỳ khổng lồ, sau khi được truyền thông nhắc đi nhắc lại nhiều lần, tiến nhập vào trong tiềm ý thức của độc giả, công chúng, một cách âm thầm lặng lẽ nó sẽ ảnh hưởng đến sự nhận thức và lý giải của công chúng đối với xã hội.
Một khi lý niệm thiên tả hình thành, nó sẽ biểu hiện tại rất nhiều các phương diện xã hội. Phần mở đầu Bài bình luận “Dưới đèn sân khấu thì toàn là lý niệm chủ nghĩa tự do” (Liberal Views Dominate Footlights) ngày 14 tháng 10 năm 2008 trên “Thời báo New York” đã nói: “Trong thời gian bầu cử, khán giả của nhà hát New York có thể được thấy chừng mười mấy vở hí kịch bị chính trị hoá quá mức, từ chiến tranh Iraq, sự hủ bại của Washington, chủ nghĩa nữ quyền đến di dân. Nhưng ở đây các bạn không thể thấy được quan điểm của người theo chủ nghĩa bảo thủ“[34].
Loại lý niệm chính trị này cũng sẽ phản ánh vào trong bầu cử. Ứng viên chính trị phái tự do sẽ nhận được sự quan tâm chú ý tích cực của truyền thông, còn phái truyền thống thì bị chèn ép một cách biến tướng. Nghiên cứu của Groseclose phát hiện, có 93% ký giả tại Washington DC sẽ bỏ phiếu cho đảng dân chủ, mà chỉ có 7% bỏ phiếu cho đảng cộng hoà. Mà tin bài của những ký giả này và phân tích của các loại “chuyên gia” trên truyền thông, đã ảnh hưởng sâu sắc đến phiếu bầu của cử tri. Groseclose tính toán, nếu như truyền thông thật sự có thể khách quan công chính đưa tin về cuộc bầu cử, thì năm 2008 ứng viên của đảng cộng hoà McCain sẽ đánh bại ứng viên đảng dân chủ Obama với tỷ lệ 56% so với 42%, mà kết quả ngược lại McCain đã thua với tỷ lệ 46% so với 53%.[35]
5. Biến điện ảnh thành tiên phong của văn hoá phản truyền thống
Ảnh hưởng của Hollywood đối với xã hội là mang tính thế giới. Mặc dù trong tổng sản lượng điện ảnh thế giới, điện ảnh Mỹ chỉ chiếm chưa đến 10%, nhưng bắt đầu từ những năm 30 thế kỷ 20, thời gian chiếu phim của các rạp phim trên toàn cầu có hơn 70% là chiếu phim của Hollywood. Hollywood chủ đạo giới điện ảnh toàn cầu là sự thực không bàn cãi [36]. Hollywood trở thành biểu tượng mang tính thế giới của văn hoá Mỹ, là bộ máy truyền bá, khuếch đại giá trị quan của nước Mỹ trên toàn cầu. Ma quỷ đương nhiên cũng sẽ không bỏ lỡ công cụ này, để truyền bá giá trị biến dị phản truyền thống.
Ngày nay đại đa số người Mỹ có lẽ rất khó mà tưởng tượng, vào những năm 30, 40 của thế kỷ trước, các gia đình ở Mỹ hầu như không cần phải lo lắng về ảnh hưởng của điện ảnh đối con cái, bởi vì giới điện ảnh lúc bấy giờ có sự tự ràng buộc về đạo đức nghiêm khắc.
Năm 1934 dưới sự hiệp trợ của Giáo hội, giới điện ảnh đã chế định ra “điều lệ Hays” (Hays Code, Tên đầy đủ là Motion Picture Production Code ). Điều thứ nhất của điều lệ quy định: Bất kể bộ phim nào cũng không được hạ thấp tiêu chuẩn đạo đức của khán giả. Không được hướng sự đồng tình của khán giả về phía tội phạm, hành vi sai trái, tội ác, hay tội lỗi; điều lệ liên quan đến tình dục có quy định, phải giữ gìn tính thần thánh của hôn nhân và gia đình, điện ảnh không được ám thị rằng quan hệ tình dục thấp kém là có thể được chấp nhận, hoặc là bình thường. Thông gian có lúc là nội dung bắt buộc trong tình tiết, cũng tuyệt đối không được xử lý lộ liễu, hoặc là dùng phương thức chính diện hoặc hấp dẫn người ta để thể hiện.
Vậy mà bắt đầu từ những năm 50 của thế kỷ trước, thuận theo sự thịnh hành của quan niệm “giải phóng tình dục” mà tà linh cộng sản chủ đạo, tạo ra sự tấn công đối với văn hoá đạo đức, đồng thời sự phổ cập của truyền hình đến các gia đình ở Mỹ mang đến cho giới điện ảnh áp lực cạnh tranh rất lớn, càng ngày càng có nhiều bộ phim bỏ qua “điều lệ Hays”, là sự tấn công cực đại đối với sự tự ràng buộc đạo đức vốn có ở Hollywood. Như bộ phim cải biên từ tiểu thuyết cùng tên “Lolita” (1962), lấy chủ đề là quan hệ tình dục vô luân giữa cha dượng và con gái vị thành niên, đã thu được một giải Oscar và một giải quả cầu vàng. Mặc dù lúc bấy giờ bộ phim này khen chê mỗi bên một nửa, nhưng hiện nay ở trang đánh giá phim rottentomatoes, trong 41 đánh giá thì có 93% là đánh giá tốt, từ đó có thể thấy đạo đức của toàn thể xã hội đã biến dị rất lớn.
Cuối cùng, cuối những năm 60 ở phương Tây xuất hiện cao trào của phong trào phản văn hoá ảnh hưởng bởi trào lưu tư tưởng cộng sản chủ nghĩa, đã tuyên cáo sự giải thể của trật tự đạo đức truyền thống của Hollywood. Trong thời đại đầy biến động này có mấy bộ phim nổi loạn có tính đại biểu là biểu tượng cho sự bắt đầu của việc ma quỷ khống chế Hollywood trên quy mô lớn.
Đầu tiên là bộ phim “Hai ta không có ngày mai” (Bonnie and Clyde) năm 1967. Bộ phim này cải biên từ câu chuyện đời thực trong thời Đại Suy thoái, về băng nhóm tội phạm cướp của giết người mà thủ lĩnh là vợ chồng Bonnie và Clyde. Trong thời Đại Suy thoái, do nhà cửa bị ngân hàng tịch thu khiến người ta phải trôi dạt khắp nơi, trộm cướp biểu hiện ra sự “căm phẫn chính nghĩa” đối với điều này. Bởi vậy bộ phim miêu tả việc giết người cướp ngân hàng là xuất phát từ bất mãn đối với “bất công” trong xã hội, ám thị một hành vi tội ác có “tính chính nghĩa” nào đó theo kiểu Robinhood. Điều đáng chú ý là, cuốn sách này đã nhiều lần đề cập rằng, ma quỷ rất giỏi dùng một loại “chính nghĩa xã hội” có vẻ “cao thượng” nào đó để hợp lý hoá hành vi tội ác. Trong bộ phim này vợ chồng trộm cướp do tài tử đẹp trai và mỹ nữ thể hiện ra một cách chính diện, họ trông có vẻ như có tình có nghĩa, có “tinh thần chính nghĩa”, còn cảnh sát thì chỉ là một bọn vô năng, gian trá. Điều này đã thể hiện rõ ràng chủ đề giá trị phản truyền thống,phản trật tự xã hội lúc bấy giờ. Thậm chí ở màn kết, cái chết của hai tên cướp lại thể hiện ra như thể “vô tội”, họ chết là do “âm mưu” được bày bố bởi cảnh sát, cái chết của họ được mỹ hoá thành “kinh điển bạo lực” tác động mạnh đến khán giả trẻ tuổi, ám thị họ là những “thánh đồ” vì “sự nghiệp vĩ đại” nào đó mà chịu nạn.
Sự nổi loạn của bộ phim đã gây chấn động đến xã hội chủ lưu, lại nhận được hưởng ứng mạnh mẽ của sinh viên nổi loạn. Diễn viên đóng vai nam và nữ chính được đăng trên trang bìa của tạp chí “Time”. Người trẻ tuổi mô phỏng phong cách, cách ăn mặc, nói năng, thói quen nổi loạn và những kiểu phản truyền thống đến cả kiểu chết của họ [37]. Một lãnh tụ tổ chức sinh viên cấp tiến đã đăng bài trên truyền thông, cho rằng Bonnie và Clyde là những “anh hùng” giống như Che Guevara – thủ lĩnh của đội du kích Cu Ba và Nguyễn Văn Trỗi – phần tử khủng bố của Việt cộng [38]. Còn có tổ chức sinh viên cấp tiến tuyên bố: “Chúng tôi không phải là Bonnie và Clyde tiềm ẩn, mà chúng tôi chính là Bonnie và Clyde”. [39]
Bộ phim đó dựa vào những cảnh bạo lực trần trụi, chủ đề mỹ hoá cho tội phạm và những cảnh nam nữ đã vượt rất xa biên giới quy tắc đạo đức của Hollywood, vậy mà vẫn được giới trong nghề tôn sùng: bộ phim đã được đề cử 10 giải Oscar, cuối cùng đã thắng 2 giải lớn. Điều này cho thấy sự giải thể của những quy tắc vốn có.
Một bộ phim khác là “Tốt nghiệp sinh” (The Graduate) cùng cuối năm đó, phản ánh sự hoang mang và xung đột trong nội tâm của sinh viên những năm 60 của thế kỷ trước. Vai nam chính tốt nghiệp đại học xong, khi đối diện với mục tiêu nhân sinh thì mù mờ và cô độc. Giá trị quan truyền thống mà thế hệ cha mẹ đại biểu được thể hiện ra khô khan và giả dối, bởi vậy anh ta từ chối tiến vào xã hội chủ lưu. Anh ta bị một phụ nữ đã có gia đình quyến rũ, rồi lại có tình yêu với con gái của bà, khi cô con gái biết việc mẹ của mình có quan hệ với người con trai kia thì tình thân, tình yêu đan xen giày vò, lúc cuối cùng khi cô và một người bạn trai khác đang cử hành hôn lễ, thì người tốt nghiệp sinh chạy tới, hai người lại cùng nhau bỏ trốn. Bộ phim đem những tình tiết như phản truyền thống, loạn tình dục, loạn luân, bỏ trốn [theo bạn tình] của người trẻ tuổi đan xen cả lại, phức tạp ly kỳ, nhưng lại hùa theo tâm thái mơ màng, trào lưu phản truyền thống của thanh niên nổi loạn xã hội lúc bấy giờ, gây tiếng vang một thời. Doanh thu phòng vé của bộ phim nhiều đến nỗi đứng đầu bảng xếp hạng doanh thu phòng vé trong nhiều năm. Bộ phim được đề cử 7 giải Oscar, có 1 giải được Hollywood thừa nhận. Hai bộ phim này đã mở ra cái gọi là thời đại “Tân Hollywood”.
Đến cuối năm 1968, Hollywood dùng chế độ phân cấp để thay thế cho “điều lệ Hays”. Cũng có nghĩa là, nội dung gì cũng đều có thể đưa lên màn ảnh, chỉ cần gắn nhãn phân cấp là xong. Điều này đã vô cùng phóng túng sự tự ràng buộc của người làm truyền thông, làm lẫn lộn tiêu chuẩn thị phi thiện ác của giới giải trí. Đến bước này, trên thực tế người làm truyền thông giải trí đã chủ động phân cách đạo đức và sáng tác, ma quỷ lợi dụng trào lưu tư tưởng xã hội đã biến dị, thông qua truyền thông kích thích dục vọng của con người, khiến người ta né tránh những chỗ không vừa ý trong cuộc sống bằng những thỏa mãn giá thành rất thấp, hễ muốn là có, đồng thời cũng lợi dụng lòng tham của những nhà sản xuất phim, để họ thông qua bạo lực và sắc tình hấp dẫn người ta mà thu được lợi nhuận thương nghiệp.
Điện ảnh là một loại truyền thông đặc thù, nó khiến người xem hoàn toàn hoà mình vào trong không khí mà bộ phim nhào nặn ra, khiến họ quên đi hiện thực, chia sẻ cảm thụ giống với nhân vật chính, chia sẻ quan điểm giống với đạo diễn . Bộ phim thành công khiến người xem như say như mê, thậm chí không muốn để bất cứ sự vật nào kéo bản thân trở lại hiện thực. Bởi vậy tác dụng nhào nặn lý niệm về giá trị cho khán giả của nó là vô cùng to lớn, cũng khiến ma quỷ lợi dụng nó có thể càng khiến con người xa rời truyền thống một cách hiệu quả hơn nữa.
Một nhà sản xuất phim nổi tiếng cho biết: “Phim tài liệu chuyển hoá những gì đã chuyển hoá, phim truyện chuyển hoá những gì chưa bị chuyển hoá.”[40] Cũng có nghĩa là, phim tài liệu chuyển hoá giá trị quan vốn có của khán giả, còn phim truyện dùng phương thức làm say mê con người, trong tình huống khán giả không đề phòng, đưa vào họ một loại giá trị quan mới nào đó. Nhà sản xuất kiêm nam diễn viên chính của bộ phim “Hai ta không có ngày mai” là một minh tinh ủng hộ lý niệm chủ nghĩa xã hội, ông ta biên đạo và diễn chính bộ phim đoạt giải Oscar và giải quả cầu vàng (đạo diễn xuất sắc nhất) là “Phần tử đỏ” (Reds, 1981), vào thời kỳ chiến tranh lạnh đang ở đỉnh điểm, lấy hình tượng bình dị dễ gần đã cải biến thành công cách nhìn nhận của người Mỹ đối với những phần tử cộng sản chủ nghĩa cấp tiến.[41] Trong một bộ phim khác mà ông này làm biên đạo và diễn chính, được đề cử nhiều hạng mục giải Oscar là “Bulworth” (1998), ông ta đã nhào nặn một ứng viên tổng thống thẳng thắn, sau đó mượn thân phận của vai chính để phát biểu diễn thuyết, nói với khán giả rằng, vấn đề giai cấp – chứ không phải vấn đề chủng tộc – mới là trung tâm của chính trị nước Mỹ, lợi ích chung giữa người da trắng phổ thông và người da đen vượt quá lợi ích chung giữa họ và những người giàu có.[42] Bộ phim của ông ta có thể thành công đến mức thế này, có dạo người ta thúc giục ông ta tham chính ứng cử tổng thống Mỹ.
Rất nhiều khi hiệu quả xúi bẩy của phim ảnh là nhanh chóng tức thời. Ví như trong buổi chiếu ra mắt của bộ phim “Hai ta không có ngày mai”, vào lúc kết thúc có người đứng dậy lớn tiếng mắng chửi cảnh sát.[43] Sau khi chế độ phân cấp có hiệu lực, bộ phim đầu tiên phân cấp R (không phù hợp cho trẻ em) đã thu hút lượng lớn khán giả là “Kỵ sĩ tiêu dao” (Easy Rider, 1969) đã khiến cho hút hít ma tuý thịnh hành trong xã hội. Nó kể về cuộc hành trình mạo hiểm của hai người hippie tóc dài lái xe mô-tô bán cô-ca-in. Nhạc Rock n Roll, ma tuý, cộng đồng hippie, nhà chứa là phương thức sinh sống suốt dọc đường của họ, trong khi quay phim thậm chí còn sử dụng ma tuý thật. Cuộc sống hippie lánh đời, phóng túng, phản truyền thống mà “tự do tự tại” của họ, đã trở thành “giấc mơ” của vô số những thanh niên nổi loạn, cũng khiến cho ma tuý trở thành tượng trưng của phong trào phản văn hoá. Đạo diễn đó thừa nhận: “Cô-ca-in trở thành một vấn đề lớn ở Mỹ, nói thật cũng toàn tại tôi”[44]
Từ khi có chế độ phân cấp, Hollywood bị tà linh lợi dụng chế tạo ra một lượng lớn những tác phẩm điện ảnh mà đầy rẫy những miêu tả chính diện về những hành vi bại hoại như tình dục, bạo lực, ma tuý, băng nhóm tội phạm. Có nghiên cứu phát hiện từ năm 1968 đến năm 2005 trong những phim sản xuất bởi Hollywood thì phim cấp R chiếm 58%.[45]
Học giả người Mỹ Victor B. Cline đã làm một phân tích về 37 bộ phim được chiếu những năm 70 thế kỷ trước ở thành phố Salt Lake, phát hiện rằng 57% bộ phim biểu hiện chính diện về hành vi nhân vật chính không chung thuỷ với vợ hoặc chồng của mình, hoặc dùng một loại tình huống nào đó để hợp lý hoá điều đó; có 38% bộ phim biểu hiện hành vi phạm tội là được đền đáp hoặc có biểu hiện thành công, hơn nữa khiến người ta hưng phấn mà không có bất kể hậu quả phụ diện nào; có 59% bộ phim mà nhân vật chính đã giết một hoặc nhiều người; 72% vai nữ chính có hành vi thông gian dưới hình thức nào đó. Trên thực tế chỉ có một bộ phim trong đó quan hệ tình dục nam nữ diễn ra trong hôn nhân hợp pháp. Chỉ có 22% bộ phim trong đó cuộc sống hôn nhân của nhân vật chính là hợp lý và lành mạnh.[46]
Có một loại biện hộ thường thấy đối với sự phê bình của đại chúng về nội dung bạo lực, tình dục quá mức trong điện ảnh, là điện ảnh chỉ là phản ánh cuộc sống hiện thực, vậy nên sẽ không mang đến nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Nhưng sự thực là, thống kê về những bộ phim ở trên hiển nhiên không thể phản ánh tình trạng hiện thực. Một lượng lớn người làm việc ở Hollywood theo cánh tả, tự nhiên sẽ phản ánh giá trị quan của họ vào trong tác phẩm, từ đó ảnh hưởng đến đại chúng xã hội. Nhà cựu biên kịch của Hollywood, nhà phê bình phim nổi tiếng là Medved chỉ ra, những người làm ở Hollywood chiểu theo ý muốn của họ mà cải biến giá trị quan của xã hội: làm mỹ hoá bạo lực, cổ xuý loạn tình dục, làm giảm giá trị gia đình v.v.. [47] Cũng có người cho rằng những nội dung đạo đức bại hoại này chỉ là bởi chịu sự sai khiến của đồng tiền. Cho dù là nguyên nhân gì, thì kết quả đều là điều ma quỷ mong muốn.
Không quá khi nói rằng, hiệu ứng dẫn động đạo đức quần thể con người trượt dốc của điện ảnh đã khiến người ta phải kinh hoàng, còn quá hơn nữa là đưa thú vật hoặc quái vật lên vị trí anh hùng, những tác phẩm tuyên dương chủ đề người biến thú, người thú giao cấu đã được giới chủ lưu Hollywood thừa nhận, và còn được tán dương, đó chính là phản ánh chân thực trong cuộc sống việc ma quỷ đang thống trị thế giới chúng ta – người ta thản nhiên tiếp nhận việc ma quỷ tiến dần từng bước.
Những bộ phim phản truyền thống này, trên bề mặt là dùng các loại lý luận có vẻ cao siêu để tìm hiểu, phản ánh những vấn đề hiện thực xã hội, nhưng trên thực tế là những cái cớ được thiết kế tỉ mỉ, thể hiện ra cho khán giả một loại “hoàn cảnh cụ thể phức tạp”, khiến người ta cảm thấy chuẩn tắc đạo đức ắt phải thuận theo tình hình thực tế mà thay đổi. Điều này thực ra là tuyên bố với khán giả rằng: thế giới này không hề có sự phân biệt thiện ác chính tà trắng đen phân minh, truyền thống là nhạt nhẽo và khiến người ta bị đè nén; đạo đức là tương đối, những hành vi xú ác bị khinh bỉ trong xã hội truyền thống trong một tình cảnh nào đó đều có thể được đẩy lên thành tâm điểm chú ý, nhận được đồng tình thậm chí tôn sùng. Trong khi người ta hưởng thụ sự giải trí, thì đồng thời ma quỷ dùng các loại phương pháp để đưa chủ nghĩa đạo đức tương đối lặng lẽ cấy vào trong tâm người ta, khiến con người từng bước một xa rời truyền thống.
6. Dùng truyền hình để đưa tẩy não đến hàng nghìn nhà vạn hộ
Ngày nay truyền hình đã dung nhập vào cuộc sống thường ngày của mọi người, nó đã trở thành một phần của việc người ta thư giãn, tán gẫu, ăn cơm. Mà thường xuyên xem TV sẽ cải biến giá trị quan của người ta, nhưng người ta lại không tự biết. Một cuộc điều tra nghiên cứu của “trung tâm nghiên cứu truyền thông” của Mỹ đã chứng minh điểm này. Tỷ như một người xem TV càng nhiều, thì càng không có xu hướng giữ gìn những giá trị quan truyền thống như thành thật, tín nhiệm, công chính; người nào xem TV càng nhiều, thì càng có xu hướng “khai phóng” về phương diện đạo đức giới tính, càng dễ thừa nhận quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, phá thai, đồng tính luyến ái v.v.. Mặc dù hai nhóm người có tự xưng là tin vào Thần có tỷ lệ không khác nhau nhiều (chừng 85%), nhưng một người xem TV càng nhiều thì càng không dễ coi trọng những nguyên tắc tôn giáo và tuân thủ những lời dạy bảo của Thần. Chẳng hạn có câu hỏi trắc nghiệm: “có nên trong bất cứ tình huống nào cũng đều tuân theo quy phạm giá trị mà Thần đặt ra, hay là tuân thủ giá trị quan của cá nhân đồng thời kết hợp với quy phạm đạo đức của Thần?” thì người xem TV nhiều dễ có xu hướng chọn vế sau.[48]
Từ những số liệu này chúng ta có thể thấy một đặc điểm, chính là thường xuyên xem TV có thể khiến người ta dễ có xu hướng theo chủ nghĩa đạo đức tương đối.
Bắt đầu từ những năm 50 của thế kỷ trước, TV đã dung nhập vào cuộc sống thường nhật của mọi người. Ngoài những kịch truyền hình với tình tiết lôi cuốn và phim có hiệu quả như nhau trong việc vun đắp giá trị quan của con người, thì talk show, hài kịch tình huống thậm chí phim tài liệu cũng nhờ không ngừng lặp đi lặp lại hàng ngày, mà lặng lẽ đưa vào đại não người ta những lý niệm biến dị các loại.
Lấy talk show làm ví dụ, phòng phát sóng vì tỷ lệ khán giả, đặc biệt thích mời đến những khách mời mà quan điểm và hành vi trái ngược với giá trị truyền thống, hoặc mâu thuẫn trong cuộc sống nổi cộm, hoặc mời đến những “chuyên gia” thảo luận một số vấn đề đạo đức gây tranh cãi. Những khách mời này được khích lệ “dũng cảm” thổ lộ những “vấn đề phức tạp sâu sắc” trong cuộc sống cá nhân, sau đó người dẫn chương trình, chuyên gia hoặc khán giả ở hiện trường sẽ đưa ra những “lựa chọn” các loại để giải quyết vấn đề. Vì để chương trình được đón nhận, trong chương trình thông thường không có bất kể phê phán đạo đức nào. Thế là rất nhiều chương trình thường trở thành một màn triển lãm những hành vi và quan điểm bại hoại, biến dị. Người ta dần dần thừa nhận, những giá trị quan mà người ta vốn kiên trì thì tại một số “tình hình đặc biệt” nào đó có thể là không thích hợp. Điều này thực tế cũng âm thầm phủ định sự tồn tại của giá trị phổ quát.
Còn có rất nhiều chương trình buổi tối của đài truyền hình tràn ngập những nội dung hạ lưu, cấp thấp, khó coi. Một số người dẫn chương trình còn coi những lời dơ bẩn là hay, thậm chí người dẫn chương trình nữ cũng nói lời thô lỗ. Không ít chương trình là trong tình huống người ta đang thư giãn nghỉ ngơi hết sức, thì lấy hình thức giải trí, rót vào người ta những thị hiếu cấp thấp, nội dung phản văn hoá, phản truyền thống, dần dần, người ta không còn cảm thấy lạ, thậm chí thừa nhận, thưởng thức, đạo đức trượt dốc mà không tự biết.
Phim truyền hình bị ma quỷ lợi dụng, đem những giá trị quan, hành vi biến dị mà không thường gặp trong cuộc sống thường nhật không ngừng trưng ra lặp đi lặp lại, khiến cho nó được “bình thường hoá”.
Shapiro từng đưa một ví dụ thế này. Trong phim truyền hình “Những người bạn” (Friends) của Mỹ có một cảnh thế này. Vợ cũ của Ross (Carol) là một người đồng tính nữ, nhưng cô ta lại mang thai đứa con của Ross. Ross hiển nhiên cảm thấy bối rối về việc đứa con của mình lớn lên trong gia đình đồng tính, lúc này Phoebe đến bên an ủi Ross rằng: “Khi em lớn, anh có biết rằng ba của em đã rời bỏ chúng em, mẹ của em cũng qua đời, còn cha dượng bị giam trong tù, cho nên em hầu như không có cách nào để xây dựng một gia đình hoàn chỉnh. Còn đứa con anh, hiện giờ vẫn chưa sinh ra, mà đã có ba người lớn tranh nhau xem ai có thể yêu nó nhiều hơn. Nó quả thực là đứa bé may mắn nhất trên thế giới.” Ross lập tức thấy nhẹ nhõm, cảm thấy rất có đạo lý. Shapiro nói: “Một phụ nữ đồng tính mang thai và ba người lớn, không những được miêu tả thành một gia đình bình thường, thậm chí còn là một gia đình khiến người ta phải hâm mộ.” [49]
Y học phát hiện, sóng điện não của người thể hiện ra 5 loại mô thức, trong đó hai loại là mô thức khi con người đang tỉnh táo, gọi là mô thức alpha và mô thức beta. Khi người ta đang trong trạng thái công việc khẩn trương, thì sóng điện não thể hiện mô thức beta, lúc này năng lực phân tích của con người tăng cường, thiên về suy xét lý tính. Nếu như một người đang biện luận, thì sóng điện não người ấy sẽ thể hiện ra mô thức beta cao độ. Nói cách khác, khi người ta ở trong trạng thái đó, thì tính cảnh giác đề cao, không dễ bị lừa. Nhưng khi người ta ở trong trạng thái buông lỏng, sóng điện não thể hiện mô thức alpha, ở trong tình huống này, tình cảm con người sẽ chiếm chủ đạo, năng lực phân tích bị suy giảm. Khi người ta đang xem TV, không phải ở trong trạng thái suy xét nghiêm túc, mà là thuộc mô thức alpha buông lỏng và dễ bị nhồi nhét. Trong tình huống đó, người ta rất dễ bị những quan điểm ở trong chương trình TV thuyết phục.
Nghiên cứu chỉ ra, có gần 2 phần 3 chương trình truyền thông (gồm cả chương trình cho trẻ em) có chứa tình tiết bạo lực, chương trình có nội dung giới tính gây lạc hướng cũng phân bố khắp truyền hình và điện ảnh. Ngoài giáo trình về giáo dục giới tính ở trường học, thì người trẻ tuổi coi truyền thông như một nguồn tin tức quan trọng thứ hai có liên quan đến hành vi giới tính. Một lượng lớn nghiên cứu cho thấy, nội dung bạo lực trên truyền thông sẽ khiến người trẻ tuổi khử nhạy đối với bạo lực (không còn cảm thấy bạo lực là bất thường), tăng nguy cơ phát sinh hành vi tấn công trong cuộc sống tương lai của họ. Khuynh hướng bạo lực, thiếu nữ mang thai, hành vi giới tính trên truyền thông tạo thành ảnh hưởng xấu đối với người trẻ tuổi. Những thiếu nữ thường xem những chương trình có nội dung giới tính, thì trong vòng 3 năm có khả năng mang thai nhiều gấp 2 lần so với những thiếu nữ ít xem những chương trình loại này. Tiết mục giới tính trong truyền thông cũng tăng thêm nguy cơ bị xâm hại tình dục cưỡng bức và hành vi tình dục nguy hiểm.[50]
Lượng lớn nội dung sắc tình và tình dục đã trực tiếp tấn công đối với giá trị quan và truyền thống của xã hội, một học giả chỉ ra: “Truyền thông tràn đầy những nội dung tình dục, không nói trẻ con, mà ngay cả những nhà bình luận cũng khó mà kháng cự, tôi cho rằng truyền thông thật sự đã trở thành người giáo dục giới tính thực sự của chúng ta rồi.” [51] Chịu ảnh hưởng của truyền thông, hành vi tình dục ngoài hôn nhân, thông gian v.v. đã trở thành phương thức sống mà người ta đã quen đến mức trở nên bình thường, cảm giác chỉ cần những người trong cuộc anh tình tôi nguyện, thì cái gì cũng có thể.
Trong cuốn sách “Tuyên truyền trong khung giờ vàng”, Shapiro tổng kết có hơn trăm sê-ri phim truyền hình có ảnh hưởng rất lớn đến nước Mỹ. Ông phát hiện thuận theo thời gian, những chương trình này từ khẳng định chủ nghĩa tự do (Liberal), đến thúc đẩy vô thần luận, chế giễu tín ngưỡng, đến thúc đẩy tình dục và bạo lực, thúc đẩy chủ nghĩa nữ quyền, khẳng định đồng tính và chuyển giới, đến việc bài xích đạo đức, phủ định quan hệ vợ chồng, gia đình, cha mẹ con cái truyền thống, đến cực lực xúc tiến quan điểm cánh tả, đến gây dựng những người không có sự đồng cảm, tàn bạo thành nhân vật chính diện, quá trình diễn biến đó chính là một quá trình các giá trị quan có xu hướng càng ngày càng sa đoạ, những phương thức sinh sống phản truyền thống này sinh ra ảnh hưởng rất lớn đối với đại chúng xã hội đặc biệt là đối với quan niệm của người trẻ tuổi .[52]
Lại còn quá hơn, rất nhiều cái gọi là chương trình âm nhạc một cách không che đậy gì quảng bá khiêu dâm nhẹ đến khán giả thanh niên, thậm chí khiêu dâm với hành vi tình dục biến thái.[53] Sau khi thực hiện chế độ phân cấp điện ảnh, một lượng lớn phim khiêu dâm loã lồ được dán lên nhãn cấp “X” là lập tức được phát hành. Thuận theo sự phát triển kỹ thuật, những chương trình khiêu dâm này từ lén lút đến công khai, ở cửa hàng cho thuê video, trên truyền hình cáp trả tiền, trong khách sạn mọi lúc đều có sẵn, không ngừng dẫn dụ người ta đi đến sa đoạ.
Trên chương trình truyền hình, ma quỷ cũng không bỏ sót việc làm ô nhiễm trẻ em, phim hoạt hình với hình tượng xấu xí, hoạt hình bạo lực, thậm chí trong chương trình ẩn chứa các loại lý niệm chủ nghĩa tiến bộ, chủ nghĩa tự do, ví như lấy danh nghĩa “đa nguyên chủ nghĩa” để gài vào đầu người ta quan niệm đồng tính luyến ái, lấy chiêu bài “trên thế giới này chỉ có một người như bạn” để nhồi nhét lý niệm mỗi cá nhân đều nên được tôn trọng mà không quan hệ gì đến hành vi đạo đức của họ, v.v. và v.v.. [54]
Tất nhiên, rất nhiều người làm chương trình Hollywood có lẽ không có kế hoạch định hình rõ ràng, rằng muốn rót vào đại chúng các loại quan niệm biến dị, nhưng nếu như người làm chương trình bản thân họ thừa nhận lý niệm chủ nghĩa tiến bộ, chủ nghĩa tự do của ma quỷ, vậy thì việc trong chương trình sẽ trộn lẫn lý niệm biến dị “một cách không tự giác” cũng có thể dự liệu . Thật sự lên kế hoạch tỉ mỉ ấy là ma quỷ, còn người làm truyền thông mà đã rời xa Thần thì sẽ trở thành con cờ bị ma quỷ thao túng.
7. Ma quỷ biến truyền thông thành chiến trường trọng yếu của cuộc chiến tranh toàn diện
Trong triết học đấu tranh của chủ nghĩa cộng sản, vì để đạt được mục đích chính trị thì có thể không từ mọi thủ đoạn, tiến hành cuộc chiến vượt mức thông thường và không có giới hạn đạo đức. Trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2016, ứng viên tổng thống Trump với bước đi thẳng thắn phản đối “đúng đắn chính trị”, đề xướng những hành động quay về với giá trị truyền thống, trật tự pháp trị, giảm thuế chấn hưng kinh tế và đời sống, phục hưng sự tôn kính và khiêm nhường đối với Thần để kéo nước Mỹ “về cánh phải”, đã dẫn đến sự khủng hoảng của phái tự do, bởi vậy phái tự do thông qua truyền thông chủ lưu dưới sự khống chế của nó, đã phát động cuộc công kích trên quy mô lớn.
Trong cuộc bầu cử, truyền thông tả khuynh lợi dụng các loại thủ pháp để cố ý bôi xấu, tập thể nói xấu Trump, miêu tả những người ủng hộ ông là theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, kỳ thị giới tính, thù địch người nhập cư, là những người da trắng chưa trải qua giáo dục tốt, khiến người ta sinh ra tâm thái khinh thường, không muốn cùng đội ngũ với ông Trump, hòng chi phối hướng đi của bầu cử. Trừ một số kênh truyền thông chiếm thiểu số, thì hầu như 95% kênh truyền thông đều dự đoán Trump khẳng định sẽ thua cuộc. Nhưng việc không như ý muốn, Trump cuối cùng đã thắng cử.
Thông thường, cho dù vận động tranh cử có kịch liệt thế nào, thì sau khi bầu cử kết thúc, các đảng phái, đoàn thể khác nhau đều nên quay về hoạt động bình thường. Truyền thông lại càng nên duy trì chuẩn tắc công chính, lấy lợi ích quốc gia làm trọng, bảo trì nguyên tắc trung lập của truyền thông. Nhưng sau khi cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2016 kết thúc, điều người ta thấy lại là, truyền thông không hề từ thời kỳ vận động tranh cử quay trở lại hoạt động bình thường, mà lại tiếp tục sự thù hận của vận động tranh cử, thậm chí ôm giữ thái độ một mất một còn, cho dù có tự huỷ đi hình tượng, thì cũng phải liều mạng đến cùng.
Đa số kênh truyền thông cố ý làm ngơ trước thành tích của chính quyền Trump, như thị trường tài chính đạt kỷ lục về giá cổ phiếu trong lịch sử, thắng lợi về ngoại giao của nước Mỹ, hầu như triệt để tiêu diệt ISIS, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ thấp nhất trong vòng 18 năm, khiến giới doanh nghiệp Mỹ khôi phục sức sống. Không chỉ như vậy, những kênh truyền thông này còn tận hết mọi khả năng để buộc tội không căn cứ. Chẳng hạn cái gọi là “thông đồng với Nga” được truyền thông khuấy động rùm beng cả lên, nhưng cuộc điều tra của công tố viên đặc biệt cho đến nay vẫn chưa tìm thấy bất kể chứng cớ nào, còn báo cáo của quốc hội đã trực tiếp chỉ ra Trump không có vấn đề thông đồng với Nga.[55]
Vì để đạt được mục đích công kích Trump, truyền thông còn chế tạo tin giả với số lượng lớn. Tháng 12 năm 2017, một kênh truyền hình tin tức đứng đầu ở Mỹ do đưa tin giả rằng Trump lệnh cho thuộc cấp âm mưu thông đồng với Nga, phải đành xử phạt ký giả thâm niên kia 4 tháng không lương, và kết thúc bằng việc thu hồi tin giả.[56] Cuối cùng, hai vị ký giả kia bị buộc phải rời bỏ đài truyền hình nọ. Đội của ký giả kia trước đây có thể nói là chiến tích huy hoàng, từng 4 lần đoạt giải Peabody, 17 lần đoạt giải Emmy, nhưng tin giả khiến họ tự huỷ hoại thanh danh, kết thúc chóng vánh.
Tháng 6 năm 2018, hình ảnh một bé gái người Honduras và người mẹ cố gắng vượt biên vào nước Mỹ, bị đội tuần tra biên giới ngăn cản khóc nức nở, được lưu truyền rộng rãi trên truyền thông và trên mạng. Truyền thông loan báo bé gái bị cưỡng ép tách khỏi người mẹ, thừa cơ phê bình không kiêng nể Trump về chính sách giữ biên giới quá chặt, ngăn chặn di dân phi pháp nghiêm khắc. Sau đó, có tạp chí nổi tiếng đem ảnh bé gái và ảnh Trump ghép lại, rồi làm thành trang bìa cuốn tạp chí, và trên trang bìa còn chú thích một câu “chào mừng đến nước Mỹ”, ý đồ mượn dịp chế giễu Trump. Nhưng sau đó trong một cuộc phỏng vấn bố của bé gái cho biết, bé gái không hề bị tách khỏi mẹ.[57]
Căn cứ theo một nghiên cứu của “Trung tâm nghiên cứu truyền thông” (Media Research Center) về chương trình tin tức buổi tối của ba công ty truyền thông lớn chủ yếu ở Mỹ trong hai năm gần đây phát hiện, ông Trump là trọng tâm đưa tin của ba hãng truyền hình lớn trong hai năm này, chiếm 1/3 tổng thời lượng tin tức buổi tối của ba đài truyền hình. Năm 2017 tỷ lệ đưa tin tiêu cực về Trump đạt mức 90%, đưa tin tích cực chỉ có 10%. Trong năm 2018 tỷ lệ đưa tin tiêu cực còn lên đến 91%. Báo cáo này nói: không còn nghi ngờ gì, không có một vị tổng thống nào như Trump phải chịu đưa tin thù địch trong thời gian vừa dài vừa liên tục như thế này.[58] Dân chúng nước Mỹ cũng nhìn ra dấu hiệu của tin giả. Căn cứ theo điều tra vào tháng 4 năm 2018 của đại học Monmouth, tỷ lệ dân chúng nước Mỹ cho rằng “truyền thông báo chí đang truyền bá tin giả”, từ 63% vào năm trước, tăng lên 77%.[59] Năm 2016 một cuộc điều tra của Gallup phát hiện, độ tín nhiệm của người Mỹ đối với truyền thông giảm đến mức thấp kỷ lục, chỉ có 32% người có rất nhiều tín nhiệm hoặc tín nhiệm ở mức độ tương đối đối với truyền thông, so với năm trước đã giảm 8%.[60] Không lạ gì một ông chủ của một kênh truyền thông lớn đau lòng nói: “Tin giả là căn bệnh ung thư trong thời đại chúng ta.” [61]
Theo kết quả bầu cử Mỹ thì tỷ lệ ủng hộ và phản đối Trump hầu như chiếm một nửa, mà thái độ của truyền thông về cơ bản lại chỉ đứng về một phía, điều này là hiện tượng không bình thường. Công kích yêu ma hoá nhắm vào Trump là bởi vì ông chủ trương khôi phục truyền thống, lý niệm của ông và tư tưởng phản truyền thống tả khuynh là không thể cùng tồn tại. Sự bôi nhọ của truyền thông nếu có thể khiến người ta mất tín nhiệm vào ông Trump, từ đó chống lại nỗ lực khôi phục truyền thống của ông, thì đã đạt được mục đích của việc đưa tin tiêu cực ──ngăn cản xã hội quay về với truyền thống.
Điều càng khiến người ta lo lắng là, một lượng lớn truyền thông trở thành cái bộ khuếch đại của ngôn luận cấp tiến, làm tăng cường mâu thuẫn xã hội, khơi dậy đối lập thù hận, dẫn đến và tăng tốc sự chia rẽ trong xã hội. Cách làm đó có thể nói là đã đi đến mức không kể gì đến luân lý cơ bản, không tính đến hậu quả, không ngại dùng phương thức chết thì cùng chết mà tự huỷ, để khiến quốc gia lâm vào cảnh cực kỳ hỗn loạn, trong trạng thái nguy hiểm.
Lời kết: Khôi phục trách nhiệm truyền thông
Nếu như nói thế kỷ trước tà linh cộng sản vẫn chỉ là xâm nhập, xâm chiếm các lĩnh vực trên thế gian một cách cục bộ, thì cho đến nay, ma quỷ đã đang thống trị thế giới chúng ta, mọi phương diện của thế giới nhân loại đều đã bị ma quỷ xâm thực. Ảnh hưởng to lớn của truyền thông đối với nhân loại bị tà linh cộng sản lợi dụng một cách hữu hiệu để tiến hành tẩy não, lừa gạt, làm bại hoại đạo đức nhân loại, khiến người ta đi đến biến dị một cách không biết không cảm thấy.
Rất nhiều kênh truyền thông phái tự do ở các quốc gia phương Tây trở thành công cụ đắc lực cho tà linh cộng sản để che đậy chân tướng, đánh lạc hướng thế nhân. Rất nhiều kênh truyền thông đã đánh mất đạo đức nghề nghiệp, thực hiện các loại công kích, vu khống, bôi nhọ một cách không từ thủ đoạn, bất kể thanh danh của bản thân kênh truyền thông, bất kể hậu quả xã hội.
Nguyên nhân ma quỷ có thể đạt được điều đó là nó đã lợi dụng các loại nhược điểm trong đạo đức của con người: truy cầu danh lợi, vô tri, lười biếng, ích kỷ, lòng đồng cảm bị lạm dụng, tâm tranh đấu v.v.. Có người tự cho mình là đúng mà tô vẽ cho bản thân thành như chân lý và đang nắm giữ giá trị phản truyền thống, có người vì để giành được sự chú ý mà hùa theo cái “nhu cầu của đại chúng” sa đoạ về đạo đức, có người vì tiền đồ nghề nghiệp của mình mà thuận theo tiêu chuẩn sa đoạ, có người xuất phát từ đố kỵ và ác ý biên tạo tin giả, có người do vô tri và lười biếng mà nghe theo tin giả, có người lợi dụng sự thiện lương và lòng đồng cảm của người khác mà cổ suý cho cái gọi là chính nghĩa xã hội, dẫn động cả xã hội chuyển về cánh tả, có người vì mục đích chính trị, kinh tế mà không từ thủ đoạn…
Sứ mệnh của truyền thông là cao cả, nó vốn là nhân tố quyết định mà người ta dựa vào để thu được tin tức đại chúng hàng ngày, cũng là lực lượng quan trọng để giữ cho xã hội phát triển lành mạnh, gánh vác tín nhiệm của đại chúng. Khách quan công bằng là yêu cầu luân lý cơ bản của truyền thông, là mấu chốt để người ta có thể trông cậy vào truyền thông, nhưng trong truyền thông ngày nay hiện tượng loạn không chỗ nào không có, khiến tín tâm của người ta dành cho truyền thông bị sứt mẻ đi nhiều. Khôi phục lại sứ mệnh của truyền thông, tái hiện lại huy hoàng của nghề báo chí, là trách nhiệm quang vinh của người làm truyền thông.
Khôi phục sứ mệnh truyền thông nghĩa là truyền thông cần theo đuổi sự Chân thực. Sự đưa tin của truyền thông đối với sự thật là toàn diện, hơn nữa xuất phát từ thành ý. Rất nhiều kênh truyền thông khi đưa tin về các hiện tượng xã hội thì chỉ thể hiện ra chân thực cục bộ, thông thường mang theo tính đánh lạc hướng, có lúc còn có hại hơn là lừa dối.
Khôi phục sứ mệnh truyền thông nghĩa là truyền thông cần theo đuổi cái Thiện. Cái thiện của truyền thông không phải là lạm dụng sự đồng cảm, không phải là đúng đắn chính trị, mà là vì phúc lợi lâu dài thật sự của nhân loại. Lối thoát của nhân loại không nằm ở thu được bao nhiêu lợi ích kinh tế trong thời gian ngắn, càng không phải Utopia mà tà linh cộng sản bào chế ra, mà là đi theo con đường truyền thống mà Thần sáng tạo ra cho con người, nâng cao chuẩn mực đạo đức, cuối cùng có thể phản bổn quy chân, quay trở về với gia viên tốt đẹp thật sự của sinh mệnh. Một kênh truyền thông khiến xã hội trọng đức mới là hành Thiện một cách căn bản. Xã hội nhân loại là thiện ác đồng tồn, truyền bá chân tướng, vạch trần tà ác, ức chế cái ác tuyên dương cái thiện, là trách nhiệm của truyền thông.
Khôi phục sứ mệnh của truyền thông nghĩa là truyền thông cần quan tâm nhiều hơn nữa đến những đại sự liên quan đến tương lai của nhân loại. Trong vòng 100 năm trở lại đây, đã diễn ra cuộc đối kháng giữa xã hội tự do và phe cộng sản. Trên bề mặt là sự đối kháng giữa các hình thái ý thức, nhưng thực tế là giao phong giữa chính và tà, thiện và ác, sinh và tử. Tà linh cộng sản đã phá huỷ đạo đức mà văn minh nhân loại dựa vào đó để duy trì, ở Đông Âu sau khi chính quyền cộng sản giải thể, âm hồn của nó vẫn chưa bị diệt.
Tại Trung Quốc, với một đất nước có nền văn hóa cổ xưa, Trung cộng trong 20 năm trở lại đây đã phát động cuộc bức hại đối với Pháp Luân Công vốn tín ngưỡng vào giá trị phổ quát “Chân – Thiện – Nhẫn”. Cuộc bức hại này đã động chạm đến số lượng người lớn, trên phạm vi rộng, thời gian kéo dài, mức độ bức hại thảm khốc, trong lịch sử nhân loại hiếm có gì so sánh được, là bức hại tín ngưỡng lớn nhất trong xã hội đương đại. Từ căn bản mà nói, đây không chỉ là bức hại đối với Pháp Luân Công, mà là bức hại đối với giá trị cốt lõi của văn minh nhân loại, bức hại đối với tự do tín ngưỡng của nhân loại. Nhưng số lượng và cường độ đưa tin của truyền thông phương Tây lại còn kém rất xa mới tương xứng. Đại đa số kênh truyền thông chủ lưu bị chính quyền Trung cộng uy hiếp và dụ dỗ, về đưa tin thì tự kiểm duyệt, giữ im lặng trong cuộc bức hại tín ngưỡng lớn nhất đương đại này, có kẻ thậm chí còn phát tán những vu khống và dối trá của Trung cộng, thêm dầu vào lửa cho tà ác, trợ Trụ vi ngược.
Đồng thời, nhân loại cũng đã xuất hiện trào lưu phản đối chủ nghĩa cộng sản tà ác, quay về truyền thống. Ở Trung Quốc, đã có hơn 300 triệu người thoái xuất khỏi các tổ chức Đảng, đoàn, đội. Một đại sự có quan hệ đến tương lai của Trung Quốc và thế giới như vậy, mà truyền thông phương Tây lại hiếm khi đưa tin.
Ngày nay, trong khi thế giới trải qua những biến đổi lớn lao, chân tướng và đạo đức truyền thống quan trọng hơn bao giờ hết. Thế giới đều cần các kênh truyền thông mà có thể phân biệt rõ thị phi, đi theo cái Thiện, giữ gìn đạo đức công chúng. Liệu có thể vượt qua lợi ích của cá nhân, công ty và đảng phái để suy xét, xuất phát từ lương tri cơ bản của con người, đưa thế giới chân thực trình bày trước mặt thế nhân hay không, là vấn đề đang được bày ngay trước mặt của mỗi một người làm truyền thông.
Đối với độc giả và khán giả mà nói, khi đạo đức truyền thông trượt dốc, thì phân biệt rõ thị phi, nhận thức lý tính các loại tin tức của truyền thông, xuất phát từ truyền thống mà phán đoán vấn đề, từ góc độ của giá trị phổ quát mà đo lường hiện tượng xã hội, thúc đẩy truyền thông quay về với sứ mệnh lịch sử, những điều đó trở nên cực kỳ trọng yếu, đó cũng là mấu chốt để người ta có thể xa rời tà linh cộng sản, quay trở về truyền thống, đi tới tương lai tốt đẹp.
*********
Tài liệu tham khảo:[1] Thomas Jefferson, The Works, vol. 5 (Correspondence 1786-1789), http://oll.libertyfund.org/quote/302.
[2] Joseph Pulitzer, “Why Schools of Journalism?” New Republic (October 9, 1930), 283.
[3]〈共產主義者同盟章程〉(中文馬克思主義文庫),https://www.marxists.org/chinese/engels/mia-chinese-engels-18471208.htm.
[4] 林彪:〈在中央政治局擴大會議上的講話〉(1966年5月18日)(中國文化大革命文庫)https://ccradb.appspot.com/post/1415。
[5] 胡喬木:〈報紙是教科書〉,《胡喬木文集》,第3卷(北京:人民出版社,1994年),頁303。
[6] 韓梅:〈英解密檔案曝光「六四」死亡人數:屍體堆積在地下通道〉,希望之聲廣播電台,2017年12月20日,http://www.soundofhope.org/gb/2017/12/20/n1378413.html
[7] “Self-Immolation Hoax on Tiananmen Square,” Minghui.org, http://en.minghui.org/cc/88/.
[8] 〈綜述:創新機制強化培養 構建高素質宣傳文化隊伍〉,新華網,2011年9月28日,http://cpc.people.com.cn/GB/64107/64110/15777918.html。
[9] Matthew Vadum, “Journalistic Treachery,” Canada Free Press, July 1, 2015, https://canadafreepress.com/article/journalistic-treachery.
[10] Marco Carynnyk: “The New York Times and the Great Famine,” The Ukrainian Weekly No. 37, Vol. LI (September 11, 1983), http://www.ukrweekly.com/old/archive/1983/378320.shtml.
[11] Robert Conquest, The Harvest of Sorrow: Soviet Collectivization and the Terror-famine (Oxford: Oxford University Press, 1986), 319.
[12] Quoted in Arnold Beichman, “Pulitzer-Winning Lies,” The Weekly Standard, June 12, 2003, https://www.weeklystandard.com/arnold-beichman/pulitzer-winning-lies.
[13] Ronald Radosh, Red Star over Hollywood: The Film Colony’s Long Romance with the Left (San Francisco: Encounter Books, 2005), 80.
[14] Ronald Radosh, Red Star Over Hollywood: The Film Colony’s Long Romance with the Left, 105.
[15] 愛德加·斯諾:《紅色中華散記》,奚博銓譯(南京:江蘇人民出版社,1991),頁1。
[16] Ruth Price, The Lives of Agnes Smedley (Oxford: Oxford University Press, 2004), 5-9.
[17] Lymari Morales, “Majority in U.S. Continues to Distrust the Media, Perceive Bias,” Gallup, September 22, 2011, https://news.gallup.com/poll/149624/majority-continue-distrust-media-perceive-bias.aspx.
[18] Tim Groseclose, Left Turn: How Liberal Media Bias Distorts the American Mind (New York: St. Martin’s Press, 2011).
[19] Tim Groseclose, Left Turn: How Liberal Media Bias Distorts the American Mind, Chapter 10, “The Second-Order Problem of an Unbalanced Newsroom.
[20] Lydia Saad, “U.S. Conservatives Outnumber Liberals by Narrowing Margin,” Gallup, January 2017, https://news.gallup.com/poll/201152/conservative-liberal-gap-continues-narrow-tuesday.aspx.
[21] Chris Cillizza, “Just 7 Percent of Journalists Are Republicans. That’s Far Fewer than Even a Decade Ago,” Washington Post, May 6, 2014, https://www.washingtonpost.com/news/the-fix/wp/2014/05/06/just-7-percent-of-journalists-are-republicans-thats-far-less-than-even-a-decade-ago/?noredirect=on&utm_term=.3d0109901e1e.
[22] “2016 General Election Editorial Endorsements by Major Newspapers,” http://www.presidency.ucsb.edu/data/2016_newspaper_endorsements.php.
[23] Ben Shapiro, Primetime Propaganda: The True Hollywood Story of How the Left Took Over Your TV (New York: Broadside Books, 2012), “The Clique: How Television Stays Liberal.”
[24] Ben Shapiro, Primetime Propaganda: The True Hollywood Story of How the Left Took Over Your TV, “Making the Right Cry: How Television Drama Glorifies Liberalism.”
[25] Ben Shapiro, Primetime Propaganda: The True Hollywood Story of How the Left Took Over Your TV, “The Clique: How Television Stays Liberal.”
[26] Quoted in Jim A. Kuypers, Partisan Journalism: A History of Media Bias in the United States (Lanham: Rowman & Littlefield, 2014), 8.
[27] S. Robert Lichter, et. al., The Media Elite (Castle Rock, CO: Adler Pub Co., 1986).
[28] Jim A. Kuypers, Partisan Journalism: A History of Media Bias in the United States (Lanham: Rowman & Littlefield, 2014), 2.
[29] Jim A. Kuypers, Press Bias and Politics: How the Media Frame Controversial Issues (Santa Barbara, CA: Greenwood Publishing Group, 2002).
[30] Quoted in Jim A. Kuypers, Partisan Journalism: A History of Media Bias in the United States, 4.
[31] Newt Gingrich, “China’s Embrace of Marxism Is Bad News for Its People,” Fox News, June 2, 2018, http://www.foxnews.com/opinion/2018/06/02/newt-gingrich-chinas-embrace-marxism-is-bad-news-for-its-people.html.
[32] Tim Groseclose and Jeff Milyo, “A Measure of Media Bias,” The Quarterly Journal of Economics, Vol. 120, No. 4 (November, 2005), 1205.
[33] Quoted in Maxwell E. McCombs and Donald L. Shaw, “The Agenda-Setting Function of Mass Media,” The Public Opinion Quarterly, Vol. 36, No. 2 (Summer, 1972), 177.
[34] Patricia Cohen, “Liberal Views Dominate Footlights,” New York Times, October 14, 2008, https://www.nytimes.com/2008/10/15/theater/15thea.html.
[35] Tim Groseclose, Left Turn: How Liberal Media Bias Distorts the American Mind, “Preface.”
[36] Jonathan Derek Silver, Hollywood’s Dominance of the Movie Industry: How Did It Arise and How Has It Been Maintained? Ph.D Dissertation, the Queensland University of Technology (2007). Section 1.4.
[37] John Belton, American Cinema / American Culture, 2nd Edition (McGraw-Hill Publishing Company, 2005), Chapter 14.
[38] Todd Gitlin, The Whole World Is Watching: Mass Media in the Making and Unmaking of the New Left (Berkeley: University of California Press, 2003), 199.
[39] Steven J. Ross, Hollywood Left and Right: How Movie Stars Shaped American Politics (Oxford University Press, 2011), 322.
[40] Steven J. Ross, Hollywood Left and Right: How Movie Stars Shaped American Politics, 338.
[41] Steven J. Ross, Hollywood Left and Right: How Movie Stars Shaped American Politics, 338-39.
[42] Steven J. Ross, Hollywood Left and Right: How Movie Stars Shaped American Politics, 352.
[43] Todd Gitlin, The Whole World Is Watching: Mass Media in the Making and Unmaking of the New Left, 199.
[44] Peter Biskind, Easy Riders, Raging Bulls: How the Sex-Drugs-and-Rock ‘N’ Roll Generation Saved Hollywood (New York: Simon and Schuster, 1999), 74.
[45] Ashley Haygood, The Climb of Controversial Film Content, MA Thesis in Communication at Liberty University, https://digitalcommons.liberty.edu/cgi/viewcontent.cgi?&httpsredir=1&article=1007&context=masters&sei-re.
[46] Victor B. Cline, “How the Mass Media Effects Our Values and Behavior,” Issues in Religion and Psychotherapy,Vol 1, No. 1. (1975), https://scholarsarchive.byu.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1004&context=irp.
[47] Michael Medved, Hollywood vs. America (New York: Harper Perennial, 1993), 3.
[48] “The Media Assault on American Values,” Media Research Center, https://www.mrc.org/special-reports/media-assault-american-values.
[49] Ben Shapiro, Primetime Propaganda: The True Hollywood Story of How the Left Took Over Your TV, “Prologue: How Conservatives Lost the Television War.”
[50] “The Impact of Media Use and Screen Time on Children, Adolescents, and Families,” American College of Pediatricians, November 2016, https://www.acpeds.org/wordpress/wp-content/uploads/11.9.16-The-Impact-of-Media-Use-and-Screen-Time-on-Children-updated-with-ref-64.pdf.
[51] Congressional Record, Volume 141, Number 146 (September 19, 1995), https://www.gpo.gov/fdsys/pkg/CREC-1995-09-19/html/CREC-1995-09-19-pt1-PgS13810.htm.
[52] Ben Shapiro, Primetime Propaganda: The True Hollywood Story of How the Left Took Over Your TV.
[53] 例如MTV的系列節目「脫光」,參見 Libby Copeland, “MTV’s Provocative ‘Undressed’: Is It Rotten to the (Soft) Core?”, Los Angeles Times, February 12, 2001, http://articles.latimes.com/2001/feb/12/entertainment/ca-24264.
[54] 具體例子可參見Ben Shapiro, Primetime Propaganda:: The True Hollywood Story of How the Left Took Over Your TV, “Robbing the Cradle: How Television Liberals Recruit Kids.”
[55] Erin Kelly, “Speaker Paul Ryan: ‘No Evidence of Collusion’ between Trump Campaign and Russians,” USA Today, June 7, 2018, https://www.usatoday.com/story/news/politics/2018/06/07/paul-ryan-no-evidence-collusion-between-trump-campaign-russians/681343002/.
[56] Julia Manchester, “Trump: ABC Should Have Fired ‘Fraudster’ Brian Ross,” The Hill, December 8, 2017, http://thehill.com/homenews/administration/364061-trump-abc-should-have-fired-fraudster-brian-ross.
[57] Samantha Schmidt and Kristine Phillips, “The Crying Honduran Girl on the Cover of Time Was Not Separated from Her Mother,” Washington Post, June 22, 2018, https://www.washingtonpost.com/news/morning-mix/wp/2018/06/22/the-crying-honduran-girl-on-the-cover-of-time-was-not-separated-from-her-mother-father-says/?noredirect=on&utm_term=.bd08dbdaf5bc.
[58] Rich Noyes, “TV vs. Trump in 2018: Lots of Russia, and 91% Negative Coverage (Again!),” NewsBusters, March 6, 2018, https://www.newsbusters.org/blogs/nb/rich-noyes/2018/03/06/tv-vs-trump-2018-lots-russia-and-91-negative-coverage.
[59] “‘Fake News’ Threat to Media; Editorial Decisions, Outside Actors at Fault,” Monmouth University Polling Institute, April 2, 2018, https://www.monmouth.edu/polling-institute/reports/monmouthpoll_us_040218/.
[60] Art Swift, “Americans’ Trust in Mass Media Sinks to New Low, Politics,” Gallup, September 14, 2016, https://news.gallup.com/poll/195542/americans-trust-mass-media-sinks-new-low.aspx.[61] Polina Marinova, “New L.A. Times Owner Tells Readers: ‘Fake News Is the Cancer of Our Times’,” Fortune, June 18, 2018, http://fortune/2018/06/18/los-angeles-times-owner/.
Bản tiếng Hán: http://www.epochtimes.com/gb/18/7/24/n10586579.htm
Bản tiếng Anh: https://www.theepochtimes.com/chapter-thirteen-hijacking-the-media_2684140.html
Bản dịch có thể được chỉnh sửa trong tương lai để sát hơn với nguyên tác.