Chương 7: Gia đình – Ma quỷ đang hủy hoại gia đình của chúng ta (Phần II) (audio)
Mục lục
5. CNCS đã phá hủy gia đình ở phương Tây như thế nào
5.2 Cổ xúy nữ quyền và bãi bỏ gia đình truyền thống
b. Hậu quả của phong trào nữ quyền: phá hoại gia đình, bại hoại nhân luân, đảo lộn vai trò giới tính
c. Cổ xúy tình dục đồng tính luyến ái và làm biến thái định nghĩa về gia đình
d. Cổ xúy quyền ly hôn và quyền phá thai
e. Dùng chế độ phúc lợi để khuyến khích gia đình đơn thân
f. Cổ xúy văn hóa biến dị
6. Trung cộng đã phá hủy gia đình như thế nào
6.1 Lấy danh nghĩa bình đẳng nam nữ để phá hoại kết cấu và sự ổn định của gia đình
6.2 Dùng đấu tranh chính trị để gây mâu thuẫn vợ chồng khiến gia đình tan vỡ
6.3 Lấy danh nghĩa khống chế dân số để cưỡng chế phá thai
7. Hậu quả của việc CNCS phá hoại gia đình
=========
5. CNCS đã phá hủy gia đình ở phương Tây như thế nào
5.2 Cổ xúy nữ quyền và bãi bỏ gia đình truyền thống
b. Hậu quả của phong trào nữ quyền: phá hoại gia đình, bại hoại nhân luân, đảo lộn vai trò giới tính
Ngày nay, quan niệm về nữ quyền đã ăn sâu vào mọi phương diện trong xã hội. Theo kết quả điều tra công chúng của Đại học Harvard vào mùa xuân năm 2016, khoảng 59% phụ nữ ủng hộ quan điểm của chủ nghĩa nữ quyền. Một quan điểm nổi bật của chủ nghĩa nữ quyền đương đại là, nam giới và phụ nữ chỉ khác nhau về đặc điểm cấu tạo cơ quan sinh sản, mọi sự khác biệt về tâm sinh lý, kể cả hành vi và tính cách của nam và nữ hoàn toàn xuất phát từ nguyên nhân xã hội và văn hóa. Với logic này, họ cho rằng nam giới và phụ nữ nên hoàn toàn bình đẳng trong mọi lĩnh vực đời sống và xã hội, rằng bất kỳ sự “bất bình đẳng” nào giữa nam giới và phụ nữ đều bắt nguồn từ sự “áp bức” và “thành kiến” về văn hóa và xã hội đối với phụ nữ.
Ví dụ, số nam giới giữ chức vụ quản lý bậc cao ở các công ty lớn, số người có trình độ học vấn cao ở các trường đại học hàng đầu, và các quan chức cấp cao trong chính phủ đều áp đảo số phụ nữ. Những người ủng hộ chủ nghĩa nữ quyền nhận định rằng nguyên nhân chủ yếu là do phụ nữ bị kỳ thị. Trên thực tế, nếu nhìn nhận một cách công bằng, cần so sánh sự khác biệt giữa hai phái trong điều kiện hoàn toàn tương đồng về năng lực làm việc, thời gian làm việc, thái độ làm việc v.v. Chẳng hạn, một yếu tố không thể bỏ qua là những chức vụ bậc cao này đòi hỏi phải làm việc với cường độ cao trong thời gian dài, phải làm việc thêm ngoài giờ, hy sinh cả thời gian nghỉ ngơi cuối tuần, thậm chí cả ban đêm, đang ăn cơm nếu nhận được một cuộc điện thoại cũng phải lập tức triệu tập cuộc họp khẩn cấp, thường xuyên phải đi công tác xa nhà v.v. Trong khi đó, phụ nữ thông thường bị gián đoạn công việc trong thời gian sinh nở. Vì thế họ có xu hướng dành nhiều thời gian hơn cho việc chăm sóc gia đình và con cái nên thường không muốn hy sinh thời gian cho công việc. Ngoài ra, những người giữ chức vụ này thường có tính cách khá mạnh mẽ, quyết đoán; đây cũng là điểm khác biệt lớn so với tính cách dịu dàng, mềm mỏng của đa số phụ nữ. Điều này có thể là nguyên nhân khiến rất ít phụ nữ có khả năng thăng tiến đến những chức vụ cao trong xã hội. Chủ nghĩa nữ quyền lại cho rằng đây là sự “bất bình đẳng” mà xã hội cưỡng ép lên phụ nữ, họ phản đối những quan điểm như phụ nữ nên ôn nhu, nên dành thời gian chăm sóc con cái và gia đình, họ cho rằng nhà nước nên cung cấp các dịch vụ công cộng như chăm sóc trẻ sơ sinh, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em và các chế độ phúc lợi khác. [1]
Chủ nghĩa nữ quyền đương thời không chịu chấp nhận bất cứ cách giải thích nào về hiện tượng “bất bình đẳng” nam nữ dựa trên sự khác biệt tự nhiên về tâm sinh lý giữa nam và nữ. Họ quy kết mọi sai lầm là do nguyên nhân xã hội và quan niệm đạo đức truyền thống, rằng như vậy mới là “chân lý duy nhất”, mới được coi là “đúng đắn chính trị”.
Năm 2005, hiệu trưởng Đại học Harvard – ông Lawrence Summers – tại một hội nghị học thuật đã đưa ra vấn đề thảo luận tại sao tỷ lệ nữ giáo sư trong lĩnh vực khoa học và toán học tại các trường đại học hàng đầu lại thấp hơn nam giáo sư. Ông cho rằng các chức vụ này đòi hỏi thời gian làm việc kéo dài (lấn vào thời gian dành cho gia đình), thường xuyên phải làm việc 80 giờ mỗi tuần. Ngoài ra, còn có nguyên nhân do sự khác biệt bẩm sinh giữa nam và nữ về năng lực toán học và khoa học. Ông chỉ ra rằng, các nghiên cứu trước đó đã chứng minh sự khác biệt rõ rệt về khả năng toán học giữa học sinh nam và học sinh nữ ở bậc trung học. Vì thế mà Tổ chức Phụ nữ Quốc gia (NOW) đã cáo buộc giáo sư Summers là “kỳ thị giới tính” và yêu cầu Đại học Harvard phải sa thải hiệu trưởng. Vị hiệu trưởng này bị giới truyền thông chỉ trích, sau đó ông đành phải công khai xin lỗi và cam kết sẽ dành 50 triệu USD để khuyến khích việc “đa dạng hóa” đội ngũ giảng viên và viên chức trong trường. [2]
Năm 1980, Tạp chí Khoa học (The Science) đã công bố một nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa năng lực suy luận toán học của học sinh trung học nam và nữ, trong đó, học sinh nam có khả năng suy luận tốt hơn. [3] Một nghiên cứu sau đó phát hiện rằng số học sinh nam có “năng khiếu toán học” cao hơn học sinh nữ. Lấy kết quả kỳ thi đầu vào của các trường đại học Mỹ (SAT) để đánh giá năng lực suy luận toán học, có thể thấy trong số những học sinh đạt 600 điểm trở lên, số học sinh nam cao gấp bốn lần học sinh nữ; trong số những học sinh đạt 700 điểm trở lên, số học sinh nam cao gấp 13 lần học sinh nữ. [4] Cũng chính nhóm nghiên cứu này đã tiến hành một nghiên cứu khác vào năm 2000, cho thấy những học sinh nam và học sinh nữ được coi là “thiên tài toán học” trong kỳ thi SAT thời niên thiếu thì 20 năm sau cũng đạt học lực cao trong các lĩnh vực liên quan đến toán học và khoa học, và đều thấy hài lòng với thành tựu đạt được trong nghề nghiệp của mình. Như vậy, suy luận của Summers là dựa trên số liệu khoa học.
Đã có kênh truyền thông lên tiếng rằng việc Summers bị cưỡng chế phải “công khai thừa nhận sai lầm” đối với quan điểm bất đồng của ông chẳng khác nào chính sách “cải tạo” người bất đồng chính kiến ở các quốc gia cộng sản. Trước khi thực sự làm rõ căn nguyên của cái gọi là “bất bình đẳng” thì việc khuyến khích “đa dạng hóa” thực chất là tăng số nữ giáo sư tới mức ngang bằng với nam giáo sư.
Alexis de Tocqueville – nhà ngoại giao, cũng là nhà khoa học chính trị Pháp thế kỷ 19 – đã chỉ ra rằng: “Dân chủ và CNXH không có bất cứ điểm tương đồng nào, ngoại trừ một từ ‘bình đẳng’. Song hãy để ý sự khác biệt này: Dân chủ tìm kiếm [cơ hội] bình đẳng trong điều kiện tự do, còn CNXH truy cầu [kết quả] bình đẳng một cách cưỡng chế.” [5] Do vậy, thật dễ nhận ra cái gen của CNCS ẩn giấu đằng sau chủ nghĩa nữ quyền.
Cần nhấn mạnh rằng, ở đây chúng tôi không có ý định chứng minh nam giới có trí tuệ hay năng lực ưu việt hơn phụ nữ, bởi vì tài năng của nam giới và phụ nữ biểu hiện ở các phương diện khác nhau. Việc cố ý cào bằng sự khác biệt giữa nam và nữ là không phù hợp với nhận thức thông thường, và cũng khiến cho nam giới và phụ nữ không thể phát huy được hết sở trường của mình.
Nếu nói rằng không có sự khác biệt rõ ràng giữa nam và nữ về trí tuệ và tâm lý thì thật khó tưởng tượng rằng chủ nghĩa nữ quyền lại có thể phủ nhận sự khác biệt giữa nam và nữ về khía cạnh thể lực và sinh sản. Trong quan niệm truyền thống của phương Đông và phương Tây, nam giới đóng vai trò người bảo vệ, nam giới chiếm số đông trong lính cứu hỏa vẫn luôn là điều bình thường. Chủ nghĩa nữ quyền lại tuyên bố rằng nam nữ là tuyệt đối “bình đẳng”, họ yêu cầu phụ nữ cũng phải đảm nhận những công việc vốn là của nam giới. Điều này đã mang đến hậu quả mà chúng ta không lường đến được.
Năm 2005, Cục Cứu hỏa Thành phố New York đã phê duyệt cho một phụ nữ không vượt qua được cuộc kiểm tra thể lực thành thành viên đội cứu hỏa. Lính cứu hỏa phải mang bình dưỡng khí và các thiết bị nặng 50 pound (22.68kg) và trải qua một loạt bài kiểm tra thể lực. Người phụ nữ này cuối cùng đã không đạt tiêu chuẩn. Mặc dù các lính cứu hỏa khác đã chỉ ra rằng một thành viên không đạt tiêu chuẩn sẽ tạo ra gánh nặng lớn hơn cho các thành viên trong đội, và sẽ uy hiếp đến sự an toàn của cả đội cũng như người dân. Song cuối cùng, Cục Cứu hỏa New York vẫn quyết định tuyển dụng cô ấy để tránh một đơn kiện từ Tổ chức Phụ nữ Quốc gia. Tổ chức Phụ nữ Quốc gia trong thời gian dài đã chỉ trích Cục Cứu hỏa New York thiết lập bài kiểm tra thể lực với yêu cầu tiêu chuẩn quá cao khiến tỷ lệ lính cứu hỏa nữ rất thấp. [6] Cục cứu hỏa Chicago cũng gặp tình huống tương tự; họ đã bị ép hạ thấp tiêu chuẩn để tuyển dụng nhiều lính cứu hỏa nữ hơn.
Ở Úc, rất nhiều sở cứu hỏa tại nhiều thành phố cũng đã quy định hạn ngạch về giới tính trong việc tuyển dụng lính cứu hỏa, tức là nếu có 50% nam giới được tuyển thì cũng phải tuyển 50% phụ nữ vào đội cứu hỏa, mặc dù yêu cầu thể lực đối với lính cứu hỏa nam cao hơn rất nhiều so với lính cứu hỏa nữ, cho dù họ phải làm công việc áp lực cao và nguy hiểm như nhau. Kiểu truy cầu kết quả bình đẳng vô lý này còn dẫn đến một vấn đề khác khiến người ta hết sức kinh ngạc: Tổ chức Phụ nữ Quốc gia lại phàn nàn rằng các lính cứu hỏa nữ bị các đồng nghiệp nam “bắt nạt”, vì các lính cứu hỏa nam chỉ trích họ không đạt tiêu chuẩn và không phù hợp làm lính cứu hỏa, gây “áp lực tinh thần” cho họ. [7] Nó cũng tạo cớ cho Tổ chức Phụ nữ Quốc gia tiếp tục đấu tranh và vận động cho “bình đẳng”. Đây là lý do tại sao chủ nghĩa nữ quyền lại có khẩu hiệu rằng “Chúng tôi vẫn còn rất nhiều việc phải làm”.
Dưới an bài của tà linh cộng sản, các phong trào chủ nghĩa nữ quyền có vẻ như hành động không có chút lý tính nào, nhưng tư tưởng chủ đạo phía sau nó thực ra là sự thách thức cái gọi là chế độ phụ quyền (tức là xã hội truyền thống), tiến tới phá vỡ gia đình truyền thống. Điểm này hoàn toàn tương đồng với việc lật đổ chủ nghĩa tư bản thông qua đấu tranh giai cấp.
Xã hội truyền thống nhìn nhận rằng nam giới là dương, thể hiện sự cứng rắn, phụ nữ là âm, thể hiện sự nhu thuận, mềm dẻo. Nam giới gánh vác trách nhiệm là trụ cột của gia đình và xã hội, bảo vệ phụ nữ và trẻ em. Nhưng chủ nghĩa nữ quyền lại muốn thách thức kết cấu xã hội phụ quyền này, cho rằng nam nữ đều giống nhau, rằng chính xã hội phụ quyền đã tạo ưu thế cho nam giới và “áp bức” phụ nữ. Do vậy, tinh thần hiệp sỹ và phong độ lịch thiệp truyền thống đều bị xem thường. Theo lý tưởng của chủ nghĩa nữ quyền thì xã hội tương lai sẽ không được chứng kiến sự cao thượng của những người đàn ông trên con tàu Titanic trước khi chìm xuống đáy biển, họ đã chủ động nhường hết cơ hội được cứu sống của mình cho phụ nữ.
Sự thách thức của chủ nghĩa nữ quyền đối với chế độ phụ quyền còn biểu hiện ở phương diện giáo dục con cái. Sau khi chủ nghĩa nữ quyền vận động thông qua Đạo luật về Quyền Bình đẳng (ERA) tại Pennsylvania, trong một vụ kiện nhằm vào Liên đoàn Thể thao Hoa Kỳ tại Pennsylvania, tòa án đã phán quyết rằng nhà trường cần phải cho các học sinh, không phân biệt giới tính, tham gia vào tất cả các hoạt động thể chất, bao gồm cả đấu vật và bóng đá Mỹ, cũng có nghĩa là học sinh nữ không được vắng mặt trong các môn thi đấu bóng đá và bóng bầu dục chỉ vì lý do giới tính. [8]
Học giả người Mỹ Christina Hoff Sommers, trong cuốn sách năm 2013 có tên “Cuộc chiến chống lại nam sinh: Chủ nghĩa nữ quyền tai hại đối với nam thanh thiếu niên như thế nào” (The War Against Boys: How Feminism Is Harming Our Young Men) đã nêu ra rất nhiều ví dụ về tình trạng nam tính đang chịu sự áp chế. [9] Trong đó, có một câu chuyện về Trường Trung học Hàng không (Aviation High School) ở quận Queens, New York. Những học sinh mà nhà trường tuyển sinh chủ yếu là trẻ em của các gia đình thu nhập thấp. Nhà trường đã bồi dưỡng các em trở thành những học sinh xuất sắc và được Tạp chí “Tin tức Hoa Kỳ và Báo cáo Thế giới” (U.S News & World Report) bình chọn là một trong những trường trung học tốt nhất ở Mỹ. Nhà trường chủ yếu dạy học sinh qua các dự án thực hành như chế tạo máy bay cơ điện. Không khó để nhận ra là đa số các học sinh trong trường là nam. Các nữ sinh trong trường chiếm tỷ lệ tương đối thấp, nhưng học cũng rất giỏi và được giảng viên cũng như các bạn tôn trọng. Tuy nhiên, trường học này trong hơn 10 năm qua đã phải hứng chịu nhiều chỉ trích và uy hiếp kiện ra pháp luật của các tổ chức phụ nữ, yêu cầu phải nâng cao tỷ lệ nữ sinh nhập học. Người sáng lập Trung tâm Luật Phụ nữ Quốc gia (National Women’s Law Center) trong bài phát biểu tại Nhà Trắng năm 2010, đã lấy Trường Trung học Hàng không New York làm ví dụ cho việc “phân biệt giới tính”. Họ tuyên bố rằng: “Trước khi đạt được bình đẳng tuyệt đối, chúng ta nhất định không thể nằm trên giường nghỉ ngơi, con đường của chúng ta còn rất dài”.
Đối với chủ nghĩa nữ quyền mà nói, việc bồi dưỡng cho các bé trai từ khi còn nhỏ phải có tinh thần nam tử hán, khích lệ các em có khả năng độc lập, có tinh thần tiến thủ, xông pha chỗ nguy hiểm, và khuyến khích các bé gái hiền dịu, biết quan tâm, chăm sóc gia đình đều là nguyên nhân gây nên sự bất bình đẳng giới tính cho xã hội tương lai và sự áp bức, kỳ thị đối với phụ nữ.
Trên thực tế, một hậu quả xấu khác mà chủ nghĩa nữ quyền cực đoan gây ra là khiến xã hội phát triển theo hướng không phân biệt giới tính, cả nam giới và phụ nữ đều không còn đặc điểm tâm lý giới tính của riêng mình, điều này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của trẻ em cũng như thanh niên. Có thể dự đoán rằng, trong xã hội sẽ xuất hiện ngày càng nhiều nhóm người đồng tính, lưỡng tính hoặc chuyển giới. Sự thực là ở một số quốc gia châu Âu đã xuất hiện xu hướng này. Ngày càng nhiều trẻ em ở trường về nói với cha mẹ rằng: “Con sinh ra trong cơ thể khác với giới tính của con”. Năm 2009, Cục Phát triển Nhận diện Giới tính (Gender Identity Development Service – GIDS) có trụ sở tại Tavistock và Quỹ Sáng lập NHS Portman tại London đã tiếp nhận 97 trường hợp có xu hướng chuyển giới. Đến năm 2017, GIDS đã tiếp nhận 2.500 trường hợp như vậy mỗi năm. [10]
Đương nhiên đây cũng là mục đích mà cái gen di truyền cộng sản đứng đằng sau chủ nghĩa nữ quyền muốn đạt được: Dùng mọi cách để phá hủy quan niệm đạo đức gia đình truyền thống nhằm làm băng hoại và giải thể gia đình truyền thống.
Trong văn hóa truyền thống, Thần hay Trời trao cho phụ nữ thiên chức sinh đẻ, nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Đằng sau những nhân vật anh hùng vĩ đại trong văn hóa truyền thống phương Đông và phương Tây đều là những người mẹ vĩ đại. Thế nhưng, theo chủ trương của chủ nghĩa nữ quyền, một ví dụ điển hình cho việc áp bức phụ nữ của xã hội phụ quyền là mọi người đều kỳ vọng người phụ nữ phải chăm sóc con cái, cho rằng trách nhiệm của người mẹ và phụ nữ trong gia đình là “không bao giờ kết thúc, khô khan, nhàm chán, không được đền đáp”.
Có người đã làm thống kê đơn giản và phát hiện rằng những phụ nữ có tên tuổi vận động cho chủ nghĩa nữ quyền đa phần là những phụ nữ có cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, hoặc không kết hôn, hoặc kết hôn nhưng không có con, đương nhiên những phụ nữ này thật khó mà lý giải được việc những người phụ nữ bình thường coi hôn nhân và gia đình là một phần quan trọng nhất trong cuộc đời của mình, họ cũng khó mà hiểu được như cảm giác mãn nguyện tự nhiên của người mẹ khi nuôi dạy con cái và ngắm nhìn con cái trưởng thành.
Ngày nay, chủ nghĩa nữ quyền đã làm nảy sinh các loại trào lưu tư tưởng nực cười. Có người chủ trương “việc cá nhân đều có ý nghĩa chính trị”, thực ra là đồng nhất cuộc sống cá nhân với “làm chính trị”, làm dấy động “chiến tranh giới tính” trong gia đình. Có người lại coi nam giới như con quỷ hút máu nô dịch tư tưởng và thân thể của phụ nữ. Có người nói con cái là chướng ngại cho việc phát huy tối đa tiềm năng của phụ nữ, họ quy kết cho gia đình là nguyên nhân khiến phụ nữ phải chịu áp bức.
Trên thực tế, chủ nghĩa nữ quyền hiện đại không hề che giấu mục đích phá hoại gia đình truyền thống của nó. Dưới sự dẫn dắt của phong trào nữ quyền đương đại, những chủ trương này không hề mới: “Chấm dứt chế độ hôn nhân là điều kiện tất yếu để giải phóng phụ nữ” [11]; “Phụ nữ không nên lựa chọn vai trò phục vụ gia đình và có kế hoạch trở thành người xây tổ ấm”[12]; “Không tiêu diệt hôn nhân thì sẽ không thể tiêu diệt được sự bất bình đẳng nam nữ” [13].
Phong trào nữ quyền lấy danh nghĩa “giải phóng” để “giải quyết” các vấn đề xã hội do sự bại hoại đạo đức của nhân loại gây ra, từ đó làm biến dị quan niệm của con người, khiến cho đạo đức xã hội càng thêm bại hoại. Nữ học giả người Mỹ Sylvia Ann Hewlett đã chỉ ra rằng chủ nghĩa nữ quyền hiện nay là nguyên nhân chủ yếu tạo nên những gia đình mẹ đơn thân; phong trào nữ quyền đang ra sức thúc đẩy “các vụ ly hôn mà hai bên không có lỗi”, thực ra là tạo điều kiện thuận lợi để nam giới trốn tránh trách nhiệm sau khi ly hôn. Trớ trêu thay, chủ nghĩa nữ quyền muốn phá hoại hoặc thay đổi kết cấu gia đình vốn có, nhưng gia đình lại chính là bến đỗ bình yên của đa số phụ nữ trước nguy cơ xã hội, mà đa số phụ nữ mong muốn vun đắp cho gia đình mình chứ không phải là phá hoại.
Trái ngược với chủ trương của chủ nghĩa nữ quyền, ly hôn không mang lại cho phụ nữ sự tự do mà họ kỳ vọng. Có nghiên cứu chỉ ra rằng 27% phụ nữ sau khi ly hôn rơi vào diện nghèo (cao gấp ba lần nam giới). [14] Điều này cũng không có gì là lạ, tà linh không hề quan tâm đến “quyền lợi” của phụ nữ bởi vì mục đích của nó là phá hoại gia đình, phá hoại luân thường đạo lý của con người.
c. Cổ xúy tình dục đồng tính luyến ái và làm biến thái định nghĩa về gia đình
Phong trào quyền đồng tính luyến ái (đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính, và chuyển giới – LGBT) từ khi bắt đầu đã không tách rời sự thúc đẩy mạnh mẽ của CNCS. Những người theo CNXH không tưởng thời kỳ đầu đề xuất rằng đồng tính luyến ái là sự lựa chọn “tự do” của con người. CNCS tuyên bố phải “giải phóng” nhân loại khỏi những “trói buộc” của quan niệm đạo đức truyền thống. Vì vậy, trong lý luận của CNCS, giải phóng tình dục bao gồm cả giải phóng “quyền” được đồng tính luyến ái, đó đều là tự do mà nhân loại nên được hưởng. Trong phong trào “tự do tình dục”, phần lớn những người theo CNCS hoặc những người có cùng quan điểm với nó đều cổ xúy cho “quyền” đồng tính luyến ái.
Trong những năm 90 của thế kỷ 19, một số nhân vật cấp cao của Đảng Dân chủ Xã hội Đức đã khởi xướng phong trào quyền đồng tính lớn đầu tiên trên thế giới. Magnus Hirschfeld của Đảng Dân chủ Xã hội Đức đã đưa ra lý lẽ lập luận rằng hành vi đồng tính là “tự nhiên” và “có đạo đức”. Năm 1897, Hirschfeld sáng lập ra Ủy ban Khoa học–Nhân văn (tên tiếng Đức là Wissenschaftlich-humanitäres Komitee, WhK) nhằm bảo vệ quyền lợi của giới đồng tính luyến ái. Tổ chức này đã phát động phong trào đầu tiên của nó cũng vào năm này.
Năm 1895, nhà văn người Anh Oscar Wilde bị cáo buộc có quan hệ với một người đàn ông khác. Đảng Dân chủ Xã hội Đức là tổ chức duy nhất ủng hộ và bào chữa cho quyền đồng tính luyến ái của Wilde. Lãnh tụ của Đảng Dân chủ Xã hội Đức Eduard Bernstein chủ trương bãi bỏ các quy định pháp luật ngăn cấm các hành vi quan hệ đồng tính nam.
Ví dụ nổi bật nhất về phong trào “giải phóng tình dục” sau cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga của Bolsheviks là nội dung đã được đề cập tại mục 4 của chương này. Trong phong trào này, quy định pháp luật về cấm hành vi đồng tính nam đã bị bãi bỏ. Liên Bang Nga lúc bấy giờ được những người cánh tả cho là quốc gia “tự do nhất” thế giới.
Năm 1997, Đảng Quốc Đại Nam Phi, sau khi lên nắm quyền, đã thông qua hiến pháp đầu tiên trên thế giới thừa nhận hôn nhân đồng tính là nhân quyền. Đảng Quốc Đại là thành viên của Đảng Xã hội Quốc tế (nguyên là một nhánh của Quốc tế Thứ hai), là đảng theo CNXH. Ủng hộ quyền “đồng tính luyến ái” là chính sách nhất quán của nó.
Năm 1924, Henry Gerber, một người nhập cư gốc Đức, đã sáng lập ra Tổ chức Nhân quyền (Society for Human Rights) – tổ chức quyền đồng tính luyến ái đầu tiên trong phong trào đồng tính ở Mỹ – tại Chicago. Tổ chức này bắt nguồn từ Ủy ban Khoa học-Nhân văn do Magnus Hirschfeld sáng lập, nhưng sau khi thành lập được vài tháng, nó đã bị giải tán do thành viên của nó bị cảnh sát bắt giữ.
Năm 1950, Harry Hay, đảng viên Đảng Cộng sản Mỹ, thành lập ra Hội Mattachine (Mattachine Society) – tổ chức quyền đồng tính luyến ái có ảnh hưởng đầu tiên ở Mỹ tại quê hương của ông ở Los Angeles. Tổ chức này sau đó mở rộng sang các địa phương khác và đã xuất bản tập san của nó.
Năm 1957, nhà động vật học Everlyn Hooker phát biểu báo cáo nghiên cứu của mình, thông qua các bài kiểm tra tâm lý, cô cho rằng không có sự khác biệt về trạng thái tâm lý của người đồng tính so với người bình thường. Kết quả nghiên cứu này sau đó đã trở thành “cơ sở khoa học” quan trọng nhất để chứng minh hành vi đồng tính luyến ái là “bình thường”. Một thành viên của Hội Mattachine – người có quan hệ mật thiết với Hooker, đã thuyết phục cô dùng nghiên cứu của cô để ủng hộ đồng tính luyến ái – là người đã xúc tiến thành công công trình nghiên cứu này. Đối tượng nghiên cứu không hề được lựa chọn ngẫu nhiên mà đều là thành viên của Hội Mattachine. Điểm này đã trở thành một trong những nguyên nhân khiến nghiên cứu này bị chỉ trích. [16]
Những năm 60 của thế kỷ 20, cùng với sự tấn công ào ạt của phong trào giải phóng tình dục và phong trào Hippie vào quan niệm truyền thống của con người, phong trào quyền đồng tính luyến ái cũng dần dần được công khai. Năm 1971, Tổ chức Phụ nữ Quốc gia (NOW) trở thành tổ chức lớn đầu tiên ủng hộ quyền đồng tính luyến ái (LGBT).
Năm 1974, Hiệp hội Tâm thần học Mỹ đã dùng báo cáo nghiên cứu của Hooker làm cơ sở khoa học quan trọng nhất để quyết định không coi đồng tính luyến ái là bệnh tâm thần. Khi hiệp hội bỏ phiếu biểu quyết cho nghị quyết này thì có 39% số người phản đối. Nói cách khác, bản thân nghị quyết này vốn không được giới khoa học nhất trí như mọi người vẫn nghĩ.
Hooker và những người nghiên cứu theo lý luận của cô sau này đã sử dụng cái gọi là kết quả kiểm tra “khả năng thích ứng” để làm tiêu chuẩn đánh giá trạng thái tâm lý của người đồng tính. Nói một cách khái quát, nếu một cá nhân có thể thích ứng với xã hội, có thể duy trì tốt đẹp các mối quan hệ xã hội và có sự tự tôn của mình, không có bất cứ trở ngại nào về tâm lý trong cuộc sống hàng ngày thì được kết luận là có tâm lý bình thường. Tiến sỹ Robert L.Kinney, III đã có bài viết trên Tạp chí Y khoa Lincore năm 2015 chỉ ra rằng tiêu chuẩn “khả năng thích ứng” này có một vấn đề, đó là đối với rất nhiều loại bệnh tâm lý, nếu dùng bài kiểm tra “khả năng thích ứng” làm tiêu chuẩn đo lường sẽ đưa đến kết quả đánh giá sai lầm rằng những người này đều có tâm lý “bình thường”. Ví dụ, có một loại bệnh rối loạn nhận diện cơ thể (Xenomelia), bệnh nhân có mong muốn mạnh mẽ muốn cắt bỏ đi bộ phận cơ thể khỏe mạnh của mình (ví dụ bỏ đi một chân), tương tự như việc một số người đồng tính nghĩ rằng mình đã bị nhầm cơ quan sinh dục, những người mắc chứng xenomelia này cũng có niềm tin mãnh liệt rằng một bộ phận nào đó trên cơ thể mình không phải là của mình. Những người bệnh này hoàn toàn có khả năng thích ứng với xã hội, có thể duy trì tốt các mối quan hệ xã hội và có sự tự tôn của mình, họ không có bất cứ trở ngại nào về tâm lý trong cuộc sống hàng ngày. Thậm chí nếu họ có cắt bỏ chân tay của mình xong thì họ vẫn cảm thấy vui vẻ và cho rằng “chất lượng cuộc sống đã được cải thiện”. [17]
Kinney còn liệt kê ra những căn bệnh tâm lý khác, như có người mắc chứng rối loạn tâm lý thích ăn nhựa, một số người bệnh khác có mong muốn mạnh mẽ tự làm tổn thương thân thể mình (nhưng không tự sát) v.v. Những người bệnh này đều có “khả năng thích ứng”, có khả năng hòa đồng với xã hội, thậm chí đa số còn có trình độ trên đại học, tuy nhiên giới khoa học đều công nhận đây là những chứng bệnh rối loạn tâm lý. Kinney cũng chỉ ra trên thực tế dùng “khả năng thích ứng” làm tiêu chuẩn để đánh giá trạng thái tâm lý là một loại lập luận logic luẩn quẩn và ngụy biện. [18]
Rất nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sử dụng ma túy, tự sát và mắc bệnh AIDS trong những người đồng tính cao hơn người bình thường [19], ngay cả tại những quốc gia đầu tiên đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính (như Đan Mạch) cũng như vậy [20]. Tỷ lệ người mắc bệnh giang mai và AIDS trong những người đồng tính nam cao hơn người bình thường từ 38-109 lần [21]. Vào thập niên 90 của thế kỷ trước, trước khi có những đột phá trong phương pháp chữa trị bệnh AIDS thì tuổi thọ bình quân của người đồng tính thậm chí còn thấp hơn tuổi thọ bình quân của con người từ 8-20 năm [22]. Những con số thực tế này cũng cho thấy đồng tính luyến ái không phải “bình thường” như người ta vẫn cổ xúy cho nó.
Cùng với việc ngày càng có nhiều người biết đến phong trào quyền đồng tính luyến ái, việc “kỳ thị đồng tính luyến ái” (homephobia) bị gắn mác “chính trị” và gây sát thương mạnh mẽ, những chuyên gia có quan điểm coi đồng tính luyến ái là bệnh tâm thần bị gạt sang một bên. Mặt khác, có khá nhiều người đồng tính đạt học vị cao trong lĩnh vực tâm thần học và tâm lý học, họ trở thành những “chuyên gia nghiên cứu” tâm lý học về đồng tính.
Cái được gọi là “bằng chứng khoa học” được sử dụng rộng rãi để biện minh rằng hành vi đồng tính luyến ái là “bình thường” là “Báo cáo của nhóm chuyên trách về cách trị liệu thích hợp về xu hướng tình dục” (Report of the Task Force on Appropriate Therapeutic Responses to Sexual Orientation) do Hiệp hội Tâm thần học Mỹ chỉ định vào năm 2009. Kinney chỉ ra rằng sáu trong số bảy thành viên trong nhóm công tác chuyên trách này, bao gồm cả trưởng nhóm, đều là người đồng tính hoặc người lưỡng tính, do đó từ góc độ khoa học mà nói thì lập trường của nhóm công tác này không hề trung lập.
Cố chủ tịch Hiệp hội Nghiên cứu và Điều trị Đồng tính Luyến ái Quốc gia tiết lộ rằng, lúc đó, còn có những chuyên gia rất giỏi xin gia nhập nhóm công tác, nhưng họ đều là những người ủng hộ việc dùng phương pháp học thuật để điều trị hành vi đồng tính luyến ái, do vậy tất cả họ đều không được tham gia nhóm công tác này [23]. Chủ tịch tiền nhiệm của Hiệp hội Tâm thần học Mỹ Nicholas Cummings đã công khai chỉ trích hiệp hội này vì để chính trị áp đảo khoa học, để cho phái tự do cực đoan cổ xúy cho phong trào quyền đồng tính luyến ái thao túng hiệp hội.
Đến nay, tiêu chuẩn “khả năng thích ứng” vẫn được các “chuyên gia” tâm lý về đồng tính và phong trào đồng tính tôn sùng; nó cũng được Hiệp hội tâm thần học Mỹ dùng để đo lường những chứng bệnh rối loạn tâm lý tình dục khác. Ví dụ, theo sổ tay điều trị của Hiệp hội Tâm thần học Mỹ, tiêu chuẩn để đo lường rối loạn tâm thần tình dục với trẻ em (ấu dâm) là: nếu một người trưởng thành nhìn thấy trẻ em mà nảy sinh khát vọng tình dục mãnh liệt không khống chế được hoặc có ảo tưởng về quan hệ tình dục, nhưng không thực hiện những hành vi này, nếu bản thân người đó không có chướng ngại tâm lý đối với trạng thái tâm lý này, tức là trong tâm người đó không cảm thấy áy náy, xấu hổ hay căng thẳng tinh thần, thì xu hướng ấu dâm của người đó được xem là “bình thường”. Ngược lại, nếu người bệnh cảm thấy nội tâm giằng xé, có cảm giác nhục nhã và áp lực tâm lý trước tình trạng của mình thì lại bị coi là người mắc chứng rối loạn tâm lý ấu dâm.
Đáng chú ý là cái gọi là tiêu chuẩn chẩn đoán tâm lý này hoàn toàn trái ngược với giá trị đạo đức phổ quát của con người, con người khi làm những hành vi bại hoại mà cảm thấy xấu hổ và cảm thấy trái với đạo đức thì lại bị coi là mắc bệnh tâm lý, đó chính là coi những thứ biến dị và bại hoại là bình thường. Tiêu chuẩn “khả năng thích ứng” đã hợp pháp hóa cho hành vi và hôn nhân đồng tính, vậy thì bước tiếp theo của ma quỷ – hợp pháp hóa hành vi ấu dâm – sẽ đến trong tương lai không xa.
David Thorstad – đảng viên Đảng Cộng sản Mỹ, người theo chủ nghĩa Trotsky – là người sáng lập Tổ chức Ấu dâm Bắc Mỹ NAMBLA (The North American Man/Boy Love Association). Một người quan trọng khác khởi xướng công khai hành vi ấu dâm và cũng là người tiên phong trong phong trào quyền đồng tính luyến ái ở Mỹ – Allen Ginsberg – là một người theo CNCS và cũng là người sùng bái Fidel Castro. Một tổ chức ấu dâm chủ yếu khác nữa là Chu kỳ Khoái cảm ở Trẻ em (Childhood Sensuality Cirle, CSC) được sáng lập vào năm 1971 tại California bởi những người theo CNCS Đức và là học trò của Wilhelm Reich, tác giả của cuốn “Cách mạng tình dục”.
Chiếc hộp Pandora đã mở ra. Theo tiêu chuẩn “khả năng thích ứng” của tâm lý học ngày nay, các loại “tự do tình dục” biến thái mà Charles Fourier – cha đẻ của CNXH không tưởng đã ủng hộ bao gồm cả loạn luân giữa các thành viên trong gia đình, quần hôn, giao cấu với súc vật, đều có thể xem là “trạng thái tâm lý bình thường”. Gia đình truyền thống do Thần định ra là sự kết hợp giữa “nam và nữ”, đã bị bóp méo thành những gia đình “vợ chồng” đồng tính, vậy thì tiếp theo đó, những người loạn luân hoặc người giao cấu với súc vật cũng có thể kết hợp thành “gia đình” và được pháp luật công nhận. Đặt con người ngang hàng với động vật vốn không có tiêu chuẩn đạo đức của con người, đây chính là thủ đoạn mà ma quỷ dùng để hủy diệt nhân loại.
Sự kết hợp, giao thoa giữa các phong trào đồng tính luyến ái, giải phóng tình dục và chủ nghĩa nữ quyền đã đánh đổ hoàn toàn các quan niệm đạo đức tình dục và gia đình truyền thống, đi ngược lại hình thức gia đình và hôn nhân truyền thống mà Thần đã thiết lập cho con người.
Cần nhấn mạnh rằng chủ trương không kỳ thị đồng tính luyến ái xuất phát từ nguyện vọng thuần túy tốt đẹp nhưng vô tri, nhưng ma quỷ đã lợi dụng nguyện vọng tốt đẹp đó của con người để lừa dối con người nhằm đạt được mục đích hủy hoại con người, bởi vì con người đã quên mất lời dạy của Thần. Thần đã phỏng theo hình tượng của mình để tạo ra nam và nữ, quy định ra quy phạm đạo đức cho con người. Nếu con người phản lại Thần, nghe theo lời ma quỷ mà phóng túng dục vọng, làm biến dị bản thân, khiến cho nam không ra nam, nữ không ra nữ, vứt bỏ đi quy phạm đạo đức làm người mà Thần định ra thì kết cục đáng sợ cuối cùng sẽ phải đối mặt là mất đi sự bảo hộ của Thần và sẽ đi đến vực thẳm không lối thoát.
Đối với những người lạc vào con đường dẫn đến vực thẳm này, người khác sẽ động viên họ rằng “Chúng tôi tôn trọng sự lựa chọn của bạn”, có thể điều này xuất phát từ lòng tốt, nhưng kết quả lại là đẩy đối phương đến hoàn cảnh nguy hiểm. Người có lòng tốt thực sự cần phải khuyên những người đang lầm đường lạc lối nên phân biệt rõ đường chính và đường tà, thoát khỏi kết cục bị tiêu hủy, cho dù họ có thể bị người khác hiểu lầm và chỉ trích.
d. Cổ xúy quyền ly hôn và quyền phá thai
Trước năm 1969, luật ly hôn tại các bang của Mỹ đều dựa trên giá trị tôn giáo truyền thống. Pháp luật yêu cầu phải đưa ra lý do ly hôn dựa trên lỗi lầm của đương sự hoặc đối phương. Theo truyền thống tôn giáo phương Tây, hôn nhân là do Thần định ra, gia đình ổn định sẽ mang lại lợi ích cho vợ chồng, con cái và toàn xã hội. Do đó, giáo hội và pháp luật của các bang đều chú trọng đảm bảo cho hôn nhân gia đình không bị tan vỡ vì những lý do không chính đáng. Đến những năm 60 của thế kỷ trước, trào lưu phản truyền thống do trường phái Frankfurt khởi xướng đã ăn mòn một cách mạnh mẽ quan niệm hôn nhân truyền thống, trong đó, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa nữ quyền có sức phá hoại lớn nhất.
Những người theo chủ nghĩa tự do đã phủ nhận tính thần thánh của hôn nhân, họ đơn giản hóa hôn nhân thành một thứ hợp đồng do hai bên tự nguyện ký kết. Chủ nghĩa nữ quyền còn cho rằng gia đình truyền thống là công cụ “áp bức” phụ nữ của xã hội phụ quyền. Đối với những phụ nữ cảm thấy chán nản, thất vọng vì bị “áp bức” hoặc với những phụ nữ ưa thích mạo hiểm mà nói, ly hôn tạo cho họ cái cớ hợp pháp để thoát khỏi hôn nhân. Những quan điểm “tự do phối hợp” hay “phản bức hại” này đã trải thảm cho các trường hợp ly hôn mà hai bên không có lỗi, theo đó chỉ cần vợ hoặc chồng đơn phương tuyên bố rằng trong cuộc sống hôn nhân của họ có “sự bất đồng không thể thỏa hiệp” thì có thể kết thúc cuộc hôn nhân.
Từ sau những năm 70 của thế kỷ trước, tỷ lệ ly hôn ở Mỹ gia tăng nhanh chóng. Lần đầu tiên trong lịch sử của Mỹ, số gia đình tan vỡ do ly hôn đã vượt qua số gia đình tan vỡ do vợ hoặc chồng chết. Gần như một nửa số gia đình kết hôn trong những năm 70 kết thúc bằng ly hôn.
Ly hôn gây ảnh hưởng xấu và sâu rộng đối với trẻ em. Michel Reagan, con trai nuôi của cố tổng thống Ronald Reagan đã miêu tả về ly hôn như sau: “Ly hôn là việc hai người trưởng thành tước đoạt mọi thứ có ý nghĩa của một đứa trẻ — như gia đình, người thân, sự an toàn và cảm giác được yêu thương, che chở của đứa trẻ — và họ đập tan mọi thứ của đứa trẻ, giẫm nát trên mặt đất, rồi ra khỏi cửa, để lại cho đứa trẻ tự mình thu dọn đống lộn xộn.” [24]
Thúc đẩy “quyền phá thai’’ là một thủ đoạn khác của ma quỷ nhằm hủy hoại con người. Ban đầu, người ta chỉ xem xét hợp thức hóa việc phá thai trong những tình huống cực kỳ bất đắc dĩ, như các trường hợp bị cưỡng hiếp hoặc loạn luân, hoặc vì sức khỏe của người mẹ không đảm bảo để sinh nở, như mắc bệnh thần kinh, bệnh tâm lý v.v.
Những người cổ xúy cho “phong trào giải phóng tình dục” cho rằng tình dục không nên chỉ giới hạn giữa vợ chồng, nhưng trở ngại lớn nhất của việc quan hệ tình dục ngoài hôn nhân là mang thai. Bởi vì các biện pháp tránh thai khó tránh khỏi thất bại, do vậy thúc đẩy hợp pháp hóa việc phá thai là biện pháp bổ sung trong trường hợp sử dụng các biện pháp tránh thai thất bại đó. Hội nghị Quốc tế của Liên Hợp Quốc về Dân số và Phát triển tại Cairo năm 1994 đã công khai quy định rằng con người có “quyền sinh con”, trong đó có quyền “đời sống tình dục an toàn và thỏa mãn”, vì vậy con người có quyền phá thai theo nhu cầu. [25]
Ngoài ra, chủ nghĩa nữ quyền còn đưa ra khẩu hiệu “Thân thể của tôi, quyền của tôi” (My Body, My Rights), họ chủ trương phụ nữ có quyền tự quyết định nên sinh con hay giết chết thai nhi. Theo cách đó, ban đầu phá thai chỉ trong trường hợp bất đắc dĩ, phát triển thành có thể “tùy ý” kết thúc sinh mệnh của một thai nhi. Khi phóng túng dục vọng của con người, ma quỷ cũng đồng thời lợi dụng phong trào nữ quyền và giải phóng tình dục để cổ xúy cho hành động giết chết thai nhi. Chúng không chỉ khiến con người phạm trọng tội mà còn khiến con người chà đạp lên quan niệm truyền thống về tính thiêng liêng của sinh mệnh.
e. Dùng chế độ phúc lợi để khuyến khích gia đình đơn thân
Năm 1965, chỉ có 5% trẻ em ở Mỹ được sinh ra trong gia đình mẹ đơn thân [26]. Có thể nói trẻ em thời đó sống cùng cha ruột trong một gia đình là chuyện đương nhiên.
Tuy nhiên, đến những năm 2010, tỷ lệ trẻ em được nuôi dưỡng bởi những người mẹ không kết hôn là 40% [27]. Từ năm 1965 đến năm 2012, số gia đình đơn thân ở Mỹ tăng thêm 10 triệu gia đình, từ 3,3 triệu lên đến 13 triệu. [28] Mặc dù có một số gia đình có người cha ở cùng khi sống chung hoặc sau đó kết hôn với người mẹ, nhưng đa số con của những người mẹ đơn thân này lớn lên trong gia đình không có cha.
Đối với con cái, người cha có vai trò hỗ trợ hoàn toàn khác với người mẹ. Người cha là tấm gương cho bé trai, bồi dưỡng cho bé trai những hành vi cần thiết để trở thành một trang nam tử và khiến cho bé gái cảm nhận được sự tôn trọng mà phụ nữ đáng được có.
Những đứa trẻ lớn lên không có người cha bên cạnh phải chịu rất nhiều thiệt thòi. Các nghiên cứu hiện nay cho thấy trẻ em trong quá trình trưởng thành mà thiếu vai trò của người cha thường trở nên thiếu tự tin. Trường hợp trốn học, bỏ học lên đến 71%. Nhiều trường hợp sử dụng ma túy, sống lang thang, tham gia băng đảng xã hội, phạm tội: 85% thanh niên vào tù và 90% người sống lang thang lớn lên trong gia đình thiếu người cha. Những người lớn lên mà không có cha có xu hướng lạm dụng tình dục (quan hệ tình dục quá sớm, dâm loạn, mang thai ở tuổi thiếu niên) cao gấp 40 lần so với số dân còn lại [29].
Viện Tư tưởng Brookings đã tổng kết ba lời khuyên chủ chốt giúp thanh thiếu niên thoát nghèo: Một là phải tốt nghiệp phổ thông trung học, hai là tìm một nơi làm việc toàn thời gian, ba là không kết hôn và sinh con trước 21 tuổi. Số liệu thống kê chỉ có 2% người Mỹ có đủ ba điều kiện này vẫn trong hoàn cảnh nghèo, còn 75% là thuộc tầng lớp trung lưu. [30] Nói cách khác, giáo dục, việc làm, tránh kết hôn quá sớm và tránh sinh con ngoài hôn nhân là con đường đáng tin cậy nhất để trở thành những người trưởng thành có trách nhiệm, sống cuộc sống lành mạnh, sung túc.
Trong tình huống hiện nay, hầu hết các bà mẹ đơn thân không thể không phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Một báo cáo của Quỹ Di sản Mỹ (American Heritage Foundation) đã đưa ra các số liệu thống kê đầy đủ và chính xác cho thấy chính sách phúc lợi dưới sự thúc đẩy của chủ nghĩa nữ quyền đã khuyến khích nhiều bà mẹ chọn cuộc sống đơn thân hơn, thậm chí còn hạn chế các cặp đôi kết hôn (vì được hưởng phúc lợi ít hơn nhưng lại phải đóng thuế nhiều hơn so với hai người chỉ sống chung mà không kết hôn). [31] Chính phủ thành công trong việc lấy phúc lợi thay thế cha của những đứa trẻ.
Chế độ phúc lợi chưa hỗ trợ được các gia đình nghèo là bao, nhưng lại khiến số gia đình đơn thân tăng cao chưa từng có. Những đứa trẻ lớn lên trong những gia đình đó lại càng thêm nghèo khó và sẽ lại càng phải phụ thuộc vào phúc lợi xã hội. Cái vòng luẩn quẩn này vừa khớp với một mục tiêu khác của tà linh: thông qua việc thu thuế cao và phúc lợi cao để khống chế mọi mặt trong cuộc sống của con người.
f. Cổ xúy văn hóa biến dị
Một bài báo trên tờ Wall Street Journal của Mỹ công bố các tài liệu của Cục Điều tra Dân số Mỹ (U.S. Census Bureau) cho thấy, năm 2000, tỷ lệ người đã lập gia đình và người chưa lập gia đình trong nhóm những người từ 25-34 tuổi lần lượt là 55% và 34%. Đến năm 2015, tỷ lệ của hai nhóm này gần như đã đổi chỗ cho nhau, trở thành 40% và 53%. Thanh niên Mỹ ngày càng xa lánh hôn nhân. Nguyên nhân là do trong văn hóa ngày nay, tình dục và hôn nhân hoàn toàn tách rời nhau, vậy thì thanh niên cần gì phải kết hôn nữa? [32]
Dưới sự điều khiển của những quan niệm biến dị, ngày nay lối sống “cặp kè” không ràng buộc, trở thành lối sống thời thượng, thậm chí quan hệ tình dục không cần có tình cảm, đương nhiên cũng không cần hai bên phải cam kết và có trách nhiệm với nhau. Điều đáng sợ nhất là thứ văn hóa biến dị này khuyến khích thanh niên thử lựa chọn giới tính cho mình. Facebook hiện cung cấp gần 60 loại giới tính khác nhau để người dùng lựa chọn. Nếu thanh niên còn không thể xác định được giới tính của mình thì họ sẽ nhìn nhận hôn nhân như thế nào? Tà linh đã định nghĩa lại hôn nhân mà Thần đã định ra từ pháp luật cho đến quan niệm xã hội.
Trong tiếng Anh, từ “Sodomy” được dùng để chỉ hành vi đồng tính luyến ái và các loại hành vi tình dục bại hoại. Từ này có nguồn gốc từ trong “Kinh Thánh”, nó được dùng để chỉ thành phố dâm loạn cuối cùng bị hủy diệt bởi sự phẫn nộ của Thần. Bản thân từ này là lời cảnh tỉnh đối với nhân loại, đó là nếu con người quay lưng lại với những răn dạy của Thần thì sẽ phải đối mặt với kết cục cực kỳ đáng sợ. Phong trào quyền đồng tính đã cực lực phế bỏ việc sử dụng từ này, thay vào đó là sử dụng từ “gay” biểu thị sự khoái lạc, khiến con người ngày càng bị lún sâu xuống bùn nhơ.
“Thông dâm” vốn là từ dùng để biểu thị sự khinh bỉ đối với những hành vi suy đồi về tình dục, nhưng ngày nay nó được đổi thành những từ mang nghĩa trung lập như “hành vi tình dục ngoài hôn nhân”, “sống chung”. Hester Prynne, vai chính trong tiểu thuyết “Chữ cái màu đỏ” (The Scarlet Letter) của Nathaniel Hawthorne, đã phạm tội ngoại tình rồi phải đấu tranh với bản thân để làm lại cuộc đời trong sự dằn vặt. Nhưng trong xã hội ngày nay, người ngoại tình không những không cần phải dằn vặt về hành vi của mình mà còn có thể ngẩng cao đầu đòi phúc lợi. “Trinh tiết” vốn là đạo đức tốt đẹp trong văn hóa truyền thống của phương Đông và phương Tây, nhưng ngày nay lại bị coi là quan niệm lỗi thời, là “trói buộc tự do”.
Dưới sự bạo chính về ngôn ngữ của “đúng đắn chính trị”, đúng sai thị phi của đồng tính luyến ái và đạo đức tình dục là những chủ đề không được đề cập đến, việc duy nhất mà người ta có thể chấp nhận là tôn trọng cái gọi là “tự do lựa chọn” của mỗi cá nhân. Điều này không chỉ thể hiện trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mà trong trường học cũng như vậy, nó dần dần khiến cho văn hóa và cuộc sống của con người hoàn toàn thoát ly khỏi đạo đức truyền thống, khiến con người không thể phát hiện ra những hành vi sa ngã, coi những hành vi bại hoại và biến dị này là bình thường, từ đó những người phóng túng dục vọng không có áp lực nào về đạo đức, đó là thủ đoạn tinh vi của ma quỷ để hủy hoại con người.
Những người dưới 50 tuổi ở phương Tây dường như không còn nhớ nổi trong xã hội mà mình đã từng sống có một nền văn hóa như thế này: hầu hết trẻ em sống và trưởng thành bên cạnh người cha ruột; “gay” là từ ngữ biểu thị sự khoái lạc; váy cưới màu trắng tinh khôi biểu thị trinh tiết của cô dâu; nội dung khiêu dâm bị cấm trên truyền hình và phát thanh. Nhưng mới chỉ qua 60 năm ngắn ngủi, ma quỷ đã phá hủy hoàn toàn phương thức sinh hoạt và văn hóa truyền thống vốn có của con người.
6. Trung cộng đã phá hủy gia đình như thế nào
6.1 Lấy danh nghĩa bình đẳng nam nữ để phá hoại kết cấu và sự ổn định của gia đình
Khẩu hiệu thời Mao Trạch Đông “Phụ nữ có thể chống đỡ nửa bầu trời” ngày nay đã du nhập vào phương Tây, trở thành một câu khẩu hiệu được ưa chuộng của chủ nghĩa nữ quyền: Women hold up half the sky (Phụ nữ nắm giữ nửa bầu trời). Việc ĐCSTQ cổ xúy “nam nữ đều như nhau” và việc truy cầu “nam nữ bình đẳng” của chủ nghĩa nữ quyền ở phương Tây thực chất đều giống nhau, thủ đoạn sử dụng cũng giống nhau. Ở phương Tây, vũ khí công kích của “đúng đắn chính trị” là “kỳ thị giới tính”; còn ở Trung Quốc, “chiếc mũ” có tính sát thương mạnh nhất là “nam tử Hán” (bắt nguồn từ “chủ nghĩa sô-vanh”).
Mặt khác, thủ đoạn của phương Đông và phương Tây cũng có đặc điểm riêng:
“Bình đẳng nam nữ” theo chủ nghĩa nữ quyền phương Tây yêu cầu thông qua việc thực hiện bồi thường hạn mức, bồi thường kinh tế hay hạ thấp các tiêu chuẩn để đạt được kết quả bình đẳng; Còn khẩu hiệu “phụ nữ đỡ nửa bầu trời” mà ĐCSTQ cổ xúy lại yêu cầu phụ nữ phải làm được những gì nam giới làm được, không thể hạ thấp tiêu chuẩn, thậm chí những phụ nữ làm những công việc mà bản thân khó đảm nhận được sẽ được tung hô là “nữ anh hùng” hoặc “tinh thần phụ nữ ngày 8/3”.
Trong các tranh vẽ tuyên truyền của những năm 60, 70 của thế kỷ trước, hình tượng phụ nữ đa phần là những cô gái lực lưỡng, khỏe mạnh, Mao Trạch Đông hô hào “Không yêu những cô gái mặt hoa da phấn mà yêu những cô gái cầm vũ khí”. Phụ nữ có thể khai hoang, phá rừng, luyện thép, xung phong ra chiến trường, không gì không thể làm được.
Trong bài báo đăng ngày 01/10/1966 trên tờ Nhân dân Nhật báo có tiêu đề “Thiếu nữ cũng có thể học giết lợn”, đã tuyên truyền rằng có một cô gái 18 tuổi trở nên nổi tiếng khi làm thực tập ở lò mổ, nhờ học tập tư tưởng của Mao mà có dũng khí giết lợn. Câu nói của cô trong bài báo đã trở nên nổi tiếng một thời: “Không dám giết heo thì sao dám giết kẻ thù…” [33]
Mặc dù phụ nữ Trung Quốc “có thể đỡ nửa bầu trời” nhưng vẫn bị chủ nghĩa nữ quyền phương Tây chỉ trích ở một điểm: ví dụ Ủy ban Thường trực Bộ Chính trị của ĐCSTQ từ trước đến nay chưa bao giờ có phụ nữ. Nguyên nhân căn bản là ĐCSTQ lo sợ việc đòi quyền lợi chính trị cho phụ nữ cuối cùng sẽ phát triển thành việc đòi các quyền chính trị cơ bản cho người dân, nhất là quyền tự do bầu cử, từ đó uy hiếp sự thống trị độc tài của nó.
Xuất phát từ những e ngại đó, chính phủ ĐCSTQ cũng không công khai cổ xúy quyền đồng tính luyến ái v.v.; nhưng từ một phương diện khác thì đồng tính luyến ái lại chính là công cụ trong tay của ma quỷ để phá hoại con người, vì vậy thái độ của ĐCSTQ đối với vấn đề đồng tính luyến ái là “không ủng hộ, cũng không phản đối”. Đồng thời nó lợi dụng việc khống chế các phương tiện truyền thông và văn hóa đại chúng để ngầm tạo điều kiện cho nhóm người đồng tính phát triển rộng. Năm 2001, sổ tay điều trị của Hiệp hội tâm thần Trung Quốc không còn xếp đồng tính luyến ái vào loại bệnh tâm thần nữa; từ “đồng tính luyến ái” cũng âm thầm được giới truyền thông thay thế bằng những từ có tính tích cực hơn trong xã hội cộng sản như “đồng chí”. Năm 2009, ĐCSTQ đã ngầm cho phép một “sự kiện đáng tự hào” của người đồng tính lần đầu tiên tổ chức ở Trung Quốc đại lục: Tuần lễ Tự hào Thượng Hải.
Mặc dù sử dụng các thủ đoạn khác nhau ở phương Đông và phương Tây, nhưng ma quỷ đều có một mục đích là phá hủy vai trò của người vợ đảm, mẹ hiền của phụ nữ trong gia đình truyền thống, cưỡng chế phụ nữ đánh mất đi đặc tính dịu dàng, mềm mỏng của mình, khiến cho gia đình mất đi sự hòa hợp cương nhu tương trợ lẫn nhau, mất đi chức năng giáo dục con cái trong gia đình truyền thống.
6.2 Dùng đấu tranh chính trị để gây mâu thuẫn vợ chồng khiến gia đình tan vỡ
Các giá trị truyền thống của Trung Quốc được xây dựng dựa trên luân lý đạo đức của gia đình. Ma quỷ biết rất rõ điều đó, nên phương thức hiệu quả nhất để phá hủy giá trị truyền thống là bắt đầu từ phá hủy luân lý đạo đức của con người. Trong các cuộc đấu tranh chính trị hết lần này đến lần khác do ĐCSTQ phát động, việc anh chị em, vợ chồng, cha con đấu tố lẫn nhau đã trở nên bình thường. Ai ai cũng phải tỏ thái độ đấu tranh chính trị tích cực, nếu không sẽ bị nghi ngờ là lập trường chính trị không vững vàng. Người nào càng mạnh tay với người thân thiết nhất của mình thì càng chứng tỏ được “lập trường kiên định”.
Tháng 12 năm 1966, thư ký của Mao Trạch Đông là Hồ Kiều Mộc bị đưa ra đấu tố tại Học viện gang thép Bắc Kinh. Ngày hôm đó, con gái của Hồ Kiều Mộc đã đứng lên nói những lời đấu tố cha mình, hét lên rằng phải “Đập vỡ cái đầu chó của Hồ Kiều Mộc”. Mặc dù con gái của Hồ không hề đập vỡ “đầu chó” của cha mình, nhưng đã có một học sinh trung học thực sự đập vỡ đầu của cha mình. Lúc bấy giờ, ở vùng Đông Tứ có một gia đình bị chụp mũ là “gia đình tư sản”, Hồng vệ binh đã đánh hai vợ chồng nhà đó đến gần chết, lại còn cưỡng ép con trai họ cũng phải đánh, đứa con trai học trung học này đã dùng chày đánh vỡ đầu của cha mình, rồi phát điên. [34]
Một trường hợp khác, một người bị đảng quy kết là kẻ thù giai cấp, để không liên lụy đến người trong gia đình, người đó đã chủ động “cắt đứt quan hệ” với mọi người trong gia đình. Ngay cả người cam chịu mang tội “tự xa rời nhân dân” vì không chịu nổi bức hại mà tự sát thì cũng phải tìm cách cắt đứt mối liên hệ với những người trong gia đình để tránh cho họ bị liên lụy. Ví như, trong Đại Cách mạng Văn hóa, nhà lý luận văn nghệ Diệp Dĩ Quần trước khi tự sát đã để lại chúc thư cho gia đình như sau: “Sau này, tôi có một yêu cầu duy nhất đối với mọi người là phải kiên quyết nghe theo đảng, kiên quyết đứng trên lập trường của đảng, phải dần dần nhận ra tội ác của tôi, phải thống hận tôi, phải vạch rõ ranh giới đối với tôi!” [35]
Cuộc đàn áp chính trị lớn nhất do ĐCSTQ phát động nhằm vào những người tín ngưỡng Pháp Luân Công suốt gần 20 năm nay, thủ đoạn quan trọng là cưỡng ép người nhà bức hại những người tín ngưỡng Pháp Luân Công. Để khiến những người tu luyện Pháp Luân Công kiên trì tín ngưỡng vào “Chân-Thiện-Nhẫn” từ bỏ tín ngưỡng của mình, một thủ đoạn của ĐCSTQ là xử phạt hành chính, trừng phạt kinh tế hoặc uy hiếp chính trị đối với thành viên trong gia đình của những người tu luyện Pháp Luân Công, uy hiếp, lừa gạt họ khóc lóc khuyên nhủ, cầu xin, thậm chí đánh đập chính người thân của mình, biến cuộc bức hại của ĐCSTQ thành mâu thuẫn trong gia đình: “Tất cả chỉ vì anh không thỏa hiệp mới khiến người nhà bị liên lụy”; thậm chí trực tiếp yêu cầu họ “khuyên nhủ” người thân: “Nếu cô không từ bỏ tín ngưỡng thì tôi chỉ còn cách ly hôn hoặc cắt đứt quan hệ cha con/mẹ con (để tránh bị ĐCSTQ trừng phạt)”, v.v. Cuộc bức hại này đã trực tiếp hoặc gián tiếp khiến cho hàng vạn gia đình tan vỡ.
6.3 Lấy danh nghĩa khống chế dân số để cưỡng chế phá thai
Không lâu sau khi chủ nghĩa nữ quyền ở phương Tây thành công trong việc hợp pháp hóa việc phá thai, phụ nữ Trung Quốc trong chế độ cộng sản bắt đầu phải chịu đựng “nghĩa vụ” phá thai bắt buộc do chính sách “kế hoạch hóa gia đình”. Một mặt nó cưỡng ép người ta trực tiếp giết người, mặt khác nó làm nảy sinh ra rất nhiều vấn đề xã hội.
ĐCSTQ tuân theo thuyết duy vật của Marx, nó cho rằng việc sinh con cũng giống như việc luyện thép, trồng trọt, đều là sản sinh ra vật chất, vậy thì kinh tế kế hoạch tất nhiên cũng có thể mở rộng thành sinh đẻ kế hoạch. Mao Trạch Đông cho rằng: “Con người phải kiểm soát chính mình, dân số phải tăng trưởng có kế hoạch, có lúc phải điều tiết cho dân số tăng một chút, hoặc phải dừng lại một chút”.[36]
Vào những năm 80 của thế kỷ trước, ĐCSTQ đã bắt đầu thực hiện chính sách “gia đình một con” bằng cách dùng các biện pháp khống chế cực đoan để cưỡng chế toàn quốc chấp hành. “Một người sinh vượt mức, cả thôn thắt ống dẫn tinh/dẫn trứng!” “Thai đầu sinh, thai hai thắt, thai ba, thai bốn nạo! nạo! nạo!” “Thai đầu đặt vòng, thai hai thắt ống dẫn tinh/dẫn trứng, thai ba, thai bốn giết, giết, giết!” “Thà máu chảy thành sông còn hơn để sinh quá một con!” “Thà thêm 10 ngôi mộ chứ không để thêm một người!” Những câu khẩu hiệu tàn nhẫn như vậy có thể thấy ở khắp Trung Quốc. Phạt nặng, tịch biên tài sản, khám xét nhà, đánh đập, giam giữ trái phép v.v. là những thủ đoạn thường dùng của ủy ban kế hoạch hóa gia đình. Một số địa phương thậm chí còn có việc nhân viên Ủy ban Kế hoạch hóa Gia đình vứt đứa bé sơ sinh xuống ruộng lúa nước cho chết đuối, chuyện những phụ nữ sắp sinh bị ép phá thai cũng chẳng có gì lạ.
Theo thống kê không đầy đủ của “Niên giám Y tế Trung Quốc”, từ năm 1971 đến năm 2002, tổng số ca nạo phá thai ở Trung Quốc ít nhất lên đến 270 triệu lượt, tức là có 270 triệu trẻ em đã bị ĐCSTQ giết chết.
Một trong những hậu quả nghiêm trọng nhất của “chính sách một con” là rất nhiều thai nhi là bé gái bị vứt bỏ hoặc bị sát hại, dẫn đến tỷ lệ giới tính trong số người dưới 30 tuổi mất cân đối nghiêm trọng. Theo thống kê, đến năm 2020, Trung Quốc sẽ có khoảng 40 triệu nam giới độc thân, họ sẽ không tìm được phụ nữ trong độ tuổi kết hôn để lấy làm vợ. Điều này sẽ dẫn đến những vấn đề tiềm ẩn nghiêm trọng như tội phạm tình dục, kết hôn vì tiền bạc, buôn bán phụ nữ, mại dâm.
7. Hậu quả của việc CNCS phá hoại gia đình
Những lý lẽ hùng hồn mà Marx và những người theo CNCS đưa ra để cổ xúy cho việc phá hủy gia đình được xây dựng dựa trên việc phóng đại một cách phiến diện những hành vi xấu xa như thông dâm, mại dâm, có con riêng v.v. tồn tại trong xã hội thời đó, mặc dù đây cũng là hành vi của chính ông ta và những người cộng sản.
Vào thời đại của Nữ hoàng Victoria, cùng với sự trượt dốc của đạo đức con người thì cũng dần dần xuất hiện hành vi phản bội trong hôn nhân, thực tế đã đi ngược lại những lời răn dạy của Thần, chà đạp tính thiêng liêng của hôn nhân. Những người theo CNCS vì thế mà đã khiến người phụ nữ quay lưng lại với những thệ ước thần thánh trong hôn nhân của mình, truy cầu cái gọi là “hạnh phúc cá nhân”, điều này lại càng khiến họ dấn sâu hơn vào sai lầm, chẳng khác nào uống rượu độc để giải khát.
“Phương thuốc” mà tà linh CNCS đưa ra chẳng qua cũng chỉ lôi đạo đức của con người xuống địa ngục, khiến cho những hành vi vốn bị mọi người lên án, không dám nhìn mặt ai lại trở thành bình thường, đạt được mọi người “bình đẳng”, khiến cho tất cả mọi người đều nhất loạt rơi vào vực thẳm của sự hủy diệt.
Tà linh cộng sản dụ dỗ con người tin rằng tội ác không phải là do sự suy đồi của con người mà là do xã hội; khiến con người tìm kiếm lối thoát bằng cách quay lưng lại với truyền thống, ngày càng rời xa Thần. Các phong trào nữ quyền, đồng tính luyến ái, giải phóng tình dục v.v. mà tà linh cổ xúy, những từ ngữ hoa mỹ như “tự do”, “giải phóng” cuối cùng dẫn đến hậu quả là sự tôn nghiêm của người phụ nữ bị hạ thấp, trách nhiệm của nam giới bị vứt bỏ, ý nghĩa thiêng liêng của gia đình bị chà đạp, đạo đức của con người bị biến dị, tương lai của trẻ nhỏ bị phá hủy, cuối cùng chỉ còn lại nụ cười ác độc và đắc thắng của ma quỷ.
*********
Tài liệu tham khảo:[1] “Jordan Peterson Debate on the Gender Pay Gap, Campus Protests and Postmodernism,” Channel 4 News, (January 16, 2018). https://www.youtube.com/watch?v=aMcjxSThD54&t=781s.
[2] Alan Findermay, “Harvard Will Spend $50 Million to Make Faculty More Diverse,” New York Times, (May 17, 2005). https://www.nytimes.com/2005/05/17/education/harvard-will-spend-50-million-to-make-faculty-more-diverse.html
[3] C. P. Benbow and J. C. Stanley, “Sex Differences in Mathematical Ability: Fact or Artifact?” Science, 210 (1980):1262–1264.
[4] C. Benbow, “Sex Differences in Ability in Intellectually Talented Preadolescents: Their Nature, Effects, and Possible Causes,” Behavioral and Brain Sciences 11(2) (1988): 169–183.
[5] Friedrich Hayek, The Road to Serfdom (Chicago: University of Chicago Press, 1994).
[6] Susan Edelman, “Woman to Become NY Firefighter Despite Failing Crucial Fitness Test,” New York Post, (May 3, 2015). https://nypost.com/2015/05/03/woman-to-become-ny-firefighter-despite-failing-crucial-fitness-test/.
[7] Una Butorac, “These Female Firefighters Don’t Want a Gender Quota System,” The Special Broadcasting Service, (May 24, 2017). https://www.sbs.com.au/news/the-feed/these-female-firefighters-don-t-want-a-gender-quota-system.
[8] Commonwealth of Pennsylvania, by Israel Packel, Attorney General, v. Pennsylvania Interscholastic Athletic Association (March 19, 1975).
[9] Christina Hoff Sommers, The War Against Boys: How Misguided Feminism Is Harming Our Young Men (New York: Simon & Schuster, 2013).
[10] Simon Osbone, “Angry Parents Blame New NHS Guidelines for Rise in Children Seeking Sex Changes,” The Daily and Sunday Express, (October 30, 2017). https://www.express.co.uk/news/uk/873072/Teenage-gender-realignment-schoolchildren-sex-change-nhs-tavistock-clinic-camhs.
[11] Declaration of Feminism. Originally distributed in June of 1971 by Nancy Lehmann and Helen Sullinger of Post Office Box 7064, Powderhorn Station, Minneapolis, Minnesota 55407 (November 1971).
[12] Vivian Gornick, as quoted in The Daily Illini (April 25, 1981).
[13] Robin Morgan, Sisterhood Is Powerful: An Anthology of Writings From the Women’s Liberation Movement (New York: Vintage, 1970), 537.
[14] Darlena Cunha, “The Divorce Gap,” The Atlantic, https://www.theatlantic.com/business/archive/2016/04/the-divorce-gap/480333/.
[15] Hilary White, “The Mother of the Homosexual Movement – Evelyn Hooker, Ph.D.,” The Life Site News, (July 16, 2007). https://www.lifesitenews.com/news/the-mother-of-the-homosexual-movement-evelyn-hooker-phd
[16] Robert L. Kinney, III, “Homosexuality and Scientific Evidence: On Suspect Anecdotes, Antiquated Data, and Broad Generalizations,” Linacre Quarterly 82(4) (2015): 364–390.
[17] Như trên.
[18] P. Cameron, W. L. Playfair, and S. Wellum, “The Longevity of Homosexuals: Before and after the AIDS Epidemic,” Omega 29 (1994): 249–272.
[19] P. Cameron, K. Cameron, W. L. Playfair, “Does Homosexual Activity Shorten Life?” Psychological Reports 83(3 Pt 1) (1998): 847–66.
[20] David W. Purcell, Christopher H. Johnson, Amy Lansky, Joseph Prejean, Renee Stein, Paul Denning, Zaneta Gau, Hillard Weinstock, John Su, and Nicole Crepaz, “Estimating the Population Size of Men Who Have Sex with Men in the United States to Obtain HIV and Syphilis Rates,” The Open AIDS Journal 6 (2012): 98–107.
[21] R. S. Hogg, S. A. Strathdee, K. J. P. Craib, M.V. O’Shaughnessy, J. S. G. Montaner, M. T. Schechter, “Modelling the Impact of HIV Disease on Mortality in Gay Men,” International Journal of Epidemiology 26(3) (1997): 657–61.
[22] Joseph Nicolosi,“Who Were the APA ‘Task Force’ Members?” https://www.josephnicolosi.com/collection/2015/6/11/who-were-the-apa-task-force-members
[23] Matthew Hoffman, “Former President of APA Says Organization Controlled by ‘Gay Rights’ Movement,” The Life Site News, (June 4, 2012). https://www.lifesitenews.com/news/former-president-of-apa-says-organization-controlled-by-gay-rights-movement.
[24] Phyllis Schlafly, Who Killed The American Family? WND Books, (Nashville, Tenn. (2014).
[25] “Programme of Action of the International Conference on Population and Development,” International Conference on Population and Development (ICPD) in Cairo, Egypt, (5–13 September 1994).
[26] The Vice Chairman’s Staff of the Joint Economic Committee at the Request of Senator Mike Lee, “Love, Marriage, and the Baby Carriage: The Rise in Unwed Childbearing,” https://www.lee.senate.gov/public/_cache/files/3a6e738b-305b-4553-b03b-3c71382f102c/love-marriage-and-the-baby-carriage.pdf.
[27] Như trên.
[28] Robert Rector, “How Welfare Undermines Marriage and What to Do About It,” Heritage Foundation Report, (November 17, 2014). https://www.heritage.org/welfare/report/how-welfare-undermines-marriage-and-what-do-about-it
[29] Schlafly, Who Killed The American Family?
[30] Ron Haskins, “Three Simple Rules Poor Teens Should Follow to Join the Middle Class,” Brookings, (March 13, 2013).   https://www.brookings.edu/opinions/three-simple-rules-poor-teens-should-follow-to-join-the-middle-class/
[31] Rector, “How Welfare Undermines Marriage and What to Do About It.”
[32] Mark Regnerus, “Cheap Sex and the Decline of Marriage,” The Wall Street Journal (September 29, 2017). https://www.wsj.com/articles/cheap-sex-and-the-decline-of-marriage-1506690454
[33] Yang Meiling, “Girls Can Slaughter Pigs Too,” People’s Daily (October 1 1966).
[34] Yu Luowen, My Family: My Brother Yu Luoke, World Chinese Publishing (2016).
[35] Diệp Châu: “10 năm cuối đời của Diệp Dĩ Quần” (Nguyệt san Văn Hối số 12 năm 1989).
[36] Bành Tiên Tri, Kim Xung Cập: “Mao tuyển đông truyền (1949-1976)” Nhà xuất bản văn hiến trung ương, Bắc Kinh 2003.
Bản tiếng Hán : http://www.epochtimes.com/gb/18/5/30/n10440961.htm
Bản tiếng Anh: https://www.theepochtimes.com/chapter-seven-destruction-of-the-family-part-ii_2661712.html
Bản dịch có thể được chỉnh sửa trong tương lai để sát hơn với nguyên tác.