Chương 18: Dã tâm toàn cầu – Dã tâm toàn cầu của Trung cộng dưới sự an bài của ma quỷ(Phần I) (audio)
Mục lục
Lời nói đầu
1. Dã tâm của Trung cộng là thay thế nước Mỹ, xưng bá thế giới
1.1 Dã tâm xưng bá thế giới của Trung cộng là không đổi từ đầu tới cuối
1.2 Muốn xưng bá thế giới, ắt phải đánh bại nước Mỹ
1.3 Toàn phương vị thâm nhập và bao vây nước Mỹ
1.4 Trường kỳ kích động tình cảm thù hận, tạo dư luận và chuẩn bị tâm lý cho chiến tranh
1.5 Vứt bỏ Ẩn mình chờ thời, cao giọng “lượng kiếm” đối với Mỹ
2. Chiến lược xưng bá toàn cầu của Trung cộng
2.1 “Nhất đới nhất lộ” – lấy danh nghĩa toàn cầu hoá để khuếch trương bản đồ
2.1.1 “Nhất đới nhất lộ” lên đài
2.1.2 Sự khuếch trương toàn cầu của “nhất đới nhất lộ”
2.2 Vành đai chiến lược “Ngoại giao vùng biên lớn” – dồn ép nước Mỹ ra khỏi Châu Á-Thái Bình Dương (TBD)
2.2.1 Châu Úc là mối liên kết yếu của phương Tây
2.2.2 Trung cộng thèm thuồng giá trị chiến lược của các đảo quốc ở Thái Bình Dương
2.2.3 Năm nước Trung Á: Dùng bẫy nợ để khống chế và cướp đoạt tài nguyên
2.2.4 Dựng nên các quốc gia điểm tựa đòn bẩy, không màng đạo đức cướp đoạt tài nguyên
2.3 Chia để trị đối với Châu Âu, phân hoá đồng minh Âu-Mỹ
2.4 Biến châu Phi thành thuộc địa – xuất khẩu “Mô hình Trung Quốc”
2.5 Tiến quân vào Mỹ Latinh – Đào góc tường sân sau nước Mỹ
2.6 Dã tâm quân sự của Trung cộng
=========
Lời nói đầu
Đầu thế kỷ trước, ma quỷ an bài người đại diện của nó ở nhân gian là Liên Xô dùng bạo lực đoạt lấy chính quyền, đồng thời đã làm trải thảm cho người đóng vai chính cho nó trong vở kịch lớn cuối cùng trên vũ đài thế giới — đây chính là Trung cộng mà lúc bấy giờ bí thư Viễn Đông của Quốc tế cộng sản một tay lập nên. Sau đó trong mấy chục năm trên vũ đài thế giới, kẻ diễn vai chính là Liên Xô, trực tiếp đối kháng với phe tự do phương Tây chính là Liên Xô, người phương Tây cũng vẫn luôn coi Liên Xô và các đảng cộng sản Đông Âu là hình mẫu để nhận thức chủ nghĩa cộng sản. Điều này đã cấp cho Trung cộng thời gian đầy đủ để phát triển lớn lên.
Đầu những năm 90 thế kỷ trước Liên Xô giải thể, Trung cộng lên vũ đài quốc tế thay thế Liên Xô hát vai chính, dùng phương thức phi bạo lực khó phát giác để dẫn dụ người ta cùng nhảy múa với nó. Trung cộng lúc này biến hoá nhanh chóng, tuyên bố không vướng vào đấu tranh về hình thái ý thức nữa, mà là dựa vào cờ hiệu “cải cách mở cửa” cực lực bám chặt vào toàn cầu hoá, phát triển nền kinh tế chủ nghĩa tư bản thân hữu dưới chế độ cực quyền. Bởi vậy rất nhiều học giả phương Tây, doanh nhân và chính khách phương Tây đã không còn nhìn nhận Trung cộng như một chính đảng theo chủ nghĩa cộng sản nữa, cùng lắm chỉ coi nó là một loại đảng cộng sản “khác kiểu”.
Nhưng trên thực tế, đảng cộng sản Trung Quốc đã tập trung “giả – ác – đấu” của chủ nghĩa cộng sản và bộ phận giảo hoạt nhất, âm hiểm nhất trong mấy nghìn năm mưu quyền chính trị của nhân loại, dùng lợi ích để dụ dỗ người ta, dùng quyền lực khống chế người ta, dùng giả dối để lừa dối người ta, nắm vững những công cụ của ma quỷ này đến mức lư hỏa thuần thanh (vô cùng nhuần nhuyễn), đã đạt đến mức độ “đỉnh phong tạo cực” (tức “đỉnh cao cực độ”)
Trung Quốc có lịch sử lâu đời 5000 năm và văn hoá truyền thống huy hoàng, trên thế giới rất nhiều người có mang cảm tình Trung Quốc rất sâu sắc, có hảo cảm và kính ý với mảnh đất cổ xưa nào đó và nhân dân Trung Quốc. Trung cộng đã lợi dụng một cách đầy đủ điểm này. Sau khi nó đoạt được chính quyền, liền bắt cóc nhân dân Trung Quốc và toàn bộ quốc gia, lẫn lộn khái niệm “Trung cộng” và “Trung Quốc”, ẩn giấu dã tâm của mình dưới lớp áo ngoài là “trỗi dậy trong hoà bình”, điều này cũng tạo nên độ khó cho xã hội quốc tế để nhận ra Trung cộng.
Nhưng vạn biến bất ly kỳ tông {nghĩa là: cho dù là trên hình thức biến hóa đa đoan, nhưng bản chất cốt lõi của nó vẫn không thay đổi}. Chính sách hợp tác kinh tế của Trung cộng chỉ là vì để dùng “dinh dưỡng của cơ thể chủ nghĩa tư bản” để nuôi dưỡng thân thể chủ nghĩa xã hội của mình, vì để củng cố sự thống trị của nó, thực hiện dã tâm của nó, chứ không phải là để Trung Quốc thật sự phồn vinh giàu mạnh, cách làm cụ thể của nó ở đâu đâu cũng là trái ngược với giá trị phổ quát.
Cái gốc lập quốc của các quốc gia bình thường nơi nhân loại là đến từ các tiên triết trong lịch sử, đến từ tín ngưỡng đối với Thần, yêu cầu tuân thủ quy phạm hành vi, giữ gìn phẩm đức cao thượng, đảm bảo quyền tư hữu về tài sản, bảo đảm giá trị phổ quát mà Sáng Thế Chủ đã định ra. Sự phát triển kinh tế của xã hội bình thường cũng đều phải có sự nâng đỡ của chuẩn mực đạo đức tương ứng. Ma quỷ hữu ý đi ngược hẳn với đạo lý đó trong đảng và quốc gia của Trung cộng, khi đạo đức Trung cộng bại hoại nhất thì đã tạo ra một “quái thai kinh tế” quật khởi với tốc độ nhanh. Mục đích của việc tà linh an bài “kỳ tích kinh tế” này rất đơn giản: không có sự lớn mạnh về kinh tế, thì Trung cộng sẽ không có quyền phát ngôn với thế giới. Tà linh thực không phải là vì để Trung Quốc lớn mạnh mà an bài hết thảy những điều này, mà là muốn lợi dụng sự sùng bái của con người đối với kim tiền và của cải, để toàn thế giới phải cầu cạnh Trung cộng về mặt kinh tế và các sự vụ quốc tế.
Về đối nội Trung cộng sử dụng bạo chính và bộ phận bất hảo nhất trong chủ nghĩa tư bản để vận hành thể chế, lật đổ đạo đức nhân loại, thưởng ác phạt thiện, để những người xấu nhất được thành công nhất trong xã hội. Chính sách của nó phóng đại mặt ác trong nhân tính, lại dùng vô thần luận khiến con người không còn biết sợ gì mà triệt để sa đoạ. Về đối ngoại lại cực lực cổ suý hình thái ý thức chủ nghĩa cộng sản “mang màu sắc Trung Quốc (cộng)” trên toàn cầu, lợi dụng lợi ích kinh tế để dụ dỗ, khiến những người của thế giới tự do từ bỏ nguyên tắc đạo đức, ngầm thừa nhận việc nó thực hành cuộc bức hại tín ngưỡng và xâm hại nhân quyền trên quy mô lớn ở Trung Quốc. Rất nhiều nhân vật chính trị trọng yếu và công ty lớn ở các quốc gia phương Tây đã vì lợi ích mà bán rẻ lương tri thoả hiệp với Trung cộng, chiểu theo quy tắc của Trung cộng mà hành sự.
Các quốc gia phương Tây hi vọng tiến hành diễn biến hoà bình đối với Trung cộng, Trung Quốc trên bề mặt đích thực đã hiện đại hoá và tây hoá rồi, nhưng cái lõi của Trung cộng xưa nay chưa từng thay đổi. Mấy chục năm qua, kết quả chân thực lại là Trung cộng đã thành công ăn mòn dần cái gốc lập quốc và nhân tâm của nước Mỹ một cách hòa bình. Ma quỷ chính là muốn phá huỷ giá trị phổ quát của nhân loại ở tầng diện đạo đức tinh thần.
Trung cộng là đại biểu tại nhân gian của tà linh cộng sản, nó đến là vì để huỷ diệt nhân loại. Trung cộng là mối uy hiếp lớn nhất của văn minh thế giới hiện nay. Dã tâm trực tiếp của việc ma quỷ để cho Trung cộng khuếch trương toàn cầu là reo rắc độc tố của nó khắp thế giới, và cuối cùng dựa vào hình thức cưỡng chế để ép con người phản lại truyền thống, chống lại Thần. Dã tâm toàn cầu trực tiếp đó mặc dù chưa đạt được, nhưng trong quá trình này những người bị nó dùng lợi ích kinh tế dụ dỗ đã đánh mất nguyên tắc đạo đức, hoặc bị hăm doạ và khống chế bởi cái bẫy tài chính của nó, hoặc là bị nó thâm nhập về chính trị, hoặc là bị tuyên truyền đối ngoại của nó mê hoặc, hoặc là bị quân sự của nó uy hiếp doạ dẫm mà không dám nói chuyện nguyên tắc đạo đức, cho dù là thế nào, ma quỷ đều đạt được mục đích của nó như nhau.
Đối diện với nguy hiểm cực lớn như vậy, người ta không thể không xem xét cẩn thận dã tâm, sách lược, thủ pháp của Trung cộng và mục đích đằng sau của nó.Dã tâm của Trung cộng là thay thế nước Mỹ, xưng bá thế giới
1.1 Dã tâm xưng bá thế giới của Trung cộng là không đổi từ đầu tới cuối
Trung cộng không thoả mãn với việc làm một nước lớn trong khu vực, mà là muốn tranh bá thế giới, điểm này là do bản tính của Trung cộng quyết định, là bẩm sinh. Bản chất của Trung cộng là phản thiên, phản địa, phản truyền thống, muốn dùng bạo lực để đập tan “thế giới cũ”, tiêu diệt quốc gia, tiêu diệt dân tộc, tiêu diệt giai cấp, “giải phóng toàn nhân loại”, điều này quyết định việc nó nhất định sẽ không ngừng khuếch trương, muốn dùng hình thái chủ nghĩa cộng sản nhất thống thiên hạ. Bởi vậy, CNCS từ khi xuất hiện, đã tất nhiên là một loại học thuyết và thực tiễn “chủ nghĩa toàn cầu”. Do lực lượng của văn hoá truyền thống đã từng rất lớn mạnh, ở một số thời gian, địa điểm cụ thể, tà linh cộng sản đành phải lựa chọn cách tiến dần từng bước, hoặc cách đi đường vòng, tuyên bố “CNXH trước tiên xây dựng thành công ở một nước”, “xây dựng CNXH mang màu sắc Trung Quốc”.
Khác với các chính đảng ở các nước dân chủ phương Tây luân phiên thay nhau, Trung cộng là một đảng độc tài, mục tiêu chiến lược của nó thường chia thành các đoạn thời gian mấy chục năm, trên trăm năm, phân thành từng bước thực hiện. Năm 1949 sau khi Trung cộng thành lập chính quyền, rất nhanh đã hô hào khẩu hiệu “vượt qua Anh đuổi kịp Mỹ”, làm “đại nhảy vọt”, về sau hình thế quốc nội và quốc tế thúc ép, nó từng phải chọn thái độ cúi đầu ngủ đông ẩn mình. Sau cuộc thảm sát “Lục tứ”, Trung cộng bị xã hội quốc tế bao vây. Lúc bấy giờ sau khi Trung cộng đánh giá tình hình cho rằng không cách nào đối kháng với nước Mỹ, bởi vậy đề xuất ra kế sách “ẩn mình chờ thời”, “tuyệt không đối đầu”. Đây không phải là Trung cộng đã thay đổi mục tiêu của nó, mà chỉ là ở các giai đoạn khác nhau trong khi tranh bá thì lựa chọn sách lược khác nhau, thái độ khác nhau mà thôi.
Từ một tầng diện khác mà quan sát, tà linh cộng sản “minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương” (dương đông kích tây), ở phạm vi toàn cầu thì thành trì tiên phong là Liên Xô, còn mục đích thật sự của nó là muốn để Trung cộng rèn luyện “thành thục”, để làm món lợi khí huỷ diệt nhân loại vào thời khắc cuối cùng.
1.2 Muốn xưng bá thế giới, ắt phải đánh bại nước Mỹ
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Mỹ trở thành quốc gia lớn mạnh nhất trên thế giới, cũng là cảnh sát quốc tế duy trì trật tự thế giới. Bất kỳ quốc gia nào muốn xưng bá thế giới, ắt phải đánh bại nước Mỹ. Bởi vậy, về phương hướng chiến lược lớn, Trung cộng tất nhiên phải coi nước Mỹ là kẻ địch chủ yếu. Trong mấy chục năm nước Mỹ luôn là kẻ địch giả tưởng của Trung cộng, Trung cộng trước giờ chưa từng từ bỏ việc chuẩn bị “tấn công” toàn phương vị đối với nước Mỹ.
Chuyên gia vấn đề Trung Quốc nổi tiếng nước Mỹ là Michael Pillsbury trong cuốn sách “Cuộc đua Ma-ra-tông đến năm 2049: chiến lược bí mật xưng bá toàn cầu của Trung Quốc” phân tích, Trung cộng có một kế hoạch chiến lược trường kỳ, đó chính là trong khoảng 100 năm Trung cộng thành lập chính quyền, lật đổ nền kinh tế thế giới, trật tự chính trị mà nước Mỹ chủ đạo, xưng bá thế giới. Trong bộ phim “Giao tranh vô thanh” của Đại học Quốc phòng Trung cộng, đã biểu thị minh xác dã tâm giao tranh với nước Mỹ: Trong quá trình thực hiện “sự nghiệp vĩ đại” làm chủ đạo thế giới của mình, Trung cộng “tất nhiên thuỷ chung đi cùng với việc cọ sát và đấu tranh với hệ thống bá quyền nước Mỹ, đây là một cuộc giao tranh thế kỷ mà không bị lay chuyển bởi ý chí con người”.[2]
Bố cục chiến lược toàn cầu của Trung cộng là chiến lược vây quanh nước Mỹ mà triển khai. Giáo sư Arthur Waldron đại học Pennsylvania, chuyên gia về vấn đề Trung Quốc trong buổi điều trần lần đầu tại Thượng viện Mỹ đã trần thuật: Quân đội Trung cộng là quân đội duy nhất trên thế giới hiện nay chuyên môn đối kháng với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.[3] Sự thực là, không chỉ ở phương diện quân sự, mà đại bộ phận hoạt động ngoại giao, chiến lược quốc tế của Trung cộng đều là trực tiếp hoặc gián tiếp nhắm vào nước Mỹ.
1.3 Toàn phương vị thâm nhập và bao vây nước Mỹ
Vì để thực hiện mưu đồ xưng bá thế giới, Trung cộng đã tiến hành bố cục toàn phương vị. Về phương diện hình thái ý thức nó tiến hành cạnh tranh với Mỹ cũng như với các nước dân chủ tự do; về mặt kinh tế nó mưu đồ dựa vào cưỡng chế chuyển nhượng kỹ thuật và đánh cắp sở hữu trí tuệ để thực hiện “đi tắt đón đầu”, dùng sự phát triển kinh tế để chứng minh cho “niềm tin chế độ”; về mặt quân sự nó tiến hành đối kháng với nước Mỹ một cách âm thầm vô cùng im lặng, lấy “tác chiến bất đối xứng” và “chiến tranh không giới hạn” làm cơ sở chiến thuật, tích cực phát triển trang bị quân sự, giễu võ một chút ở Biển Đông ; bao che cho những quốc gia lưu manh như Triều Tiên, Iran, kiềm chế Mỹ và khối NATO.
Về mặt ngoại giao, Trung cộng thúc đẩy “Đại chiến lược vùng biên”, kế hoạch “Một vành đai, một con đường”, đồng thời hạ thủ đối với các nước láng giềng, các nước châu Âu, châu Phi, châu Úc, châu Mỹ Latinh, nhanh chóng khuếch đại sức ảnh hưởng và sức khống chế quốc tế, mưu đồ trên quốc tế nâng đỡ một nhóm các nước phụ thuộc, thiết lập phạm vi thế lực, cô lập nước Mỹ. Trung cộng dùng nhiều loại phương thức, trên quốc tế thì hợp tung liên hoành, ví như thành lập tổ chức Hợp tác Thượng Hải (1996), thành lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Châu Á (2015), phát động Hợp tác 16+1 với các quốc gia Trung và Đông Âu (2012), dấn thân vào hợp tác năm nước khối BRICS, dốc sức thúc đẩy quốc tế hoá đồng Nhân dân tệ, tranh đoạt quyền chế định tiêu chuẩn công nghiệp (chẳng hạn mạng 5G), không ngừng khuếch đại tầm ảnh hưởng, tranh đoạt quyền phát ngôn.
Đồng thời với đó, Trung cộng lợi dụng chế độ dân chủ và quyền tự do ngôn luận báo chí ở Mỹ và các quốc gia phương Tây, phát động các thủ đoạn như thống nhất chiến tuyến [mặt trận thống nhất], đại ngoại tuyên [kế hoạch lớn về tuyên truyền đối ngoại], chiến tranh gián điệp, mưu đồ từ nội bộ thao túng và diễn biến hoà bình nước Mỹ ở mức độ tối đa: thiết lập quan hệ tư nhân mua chuộc các quan chức chính phủ, nghị sĩ quốc hội, quan chức ngoại giao và quân nhân giải ngũ của nước Mỹ; dùng lợi ích kinh tế xúi giục các nhà tư bản Mỹ làm thuyết khách cho Trung cộng, để ảnh hưởng đến chính sách của nước Mỹ đối với Trung Quốc, cưỡng chế các công ty khoa học kỹ thuật cao hợp tác với Trung cộng phong toả mạng Internet và kiểm duyệt tin tức; đe doạ và dụ dỗ đại đa số cộng đồng người Hoa tự động trở thành đạo quân thứ 5; thâm nhập vào các “viện chiến lược” (think tank) Mỹ và cơ quan nghiên cứu khoa học học thuật, chiểu theo yêu cầu của Trung cộng mà tự ràng buộc, phát ngôn giúp Trung cộng; mua lại và đầu tư các kênh truyền thông và ngành điện ảnh Mỹ, đồng thời chế định ra chiến lược “đại ngoại tuyên bản địa hoá”, các kênh truyền thông ngôn luận tiến quân vào bản địa nước Mỹ trên quy mô lớn, gắng sức khống chế dư luận, khống chế quyền phát ngôn của nước Mỹ đối với Trung cộng…. Trung cộng một mặt ở các nước trên thế giới thiết lập vòng đai chiến lược bao vây nước Mỹ, một mặt khác ở bản địa nước Mỹ từng bước một vừa tiến vừa hạ trại, toàn tuyến xuất kích, bồi dưỡng người đại diện trên quy mô lớn, chia rẽ xã hội nước Mỹ, gây sóng gió hết ngày này qua ngày khác, trở thành cái hoạ hoạn từ bên trong của nước Mỹ.
1.4 Trường kỳ kích động tâm lý thù hận, tạo dư luận và chuẩn bị tâm lý cho chiến tranh
Là đại diện quan trọng nhất nơi nhân gian của tà linh cộng sản, Trung cộng hấp thụ năng lượng từ trong thù hận để duy trì sự tồn tại của bản thân nó. “Yêu nước” mà Trung cộng vẫn tuyên truyền, là được kiến lập trên cơ sở của thù hận — “Yêu nước” chính là hận Nhật Bản, hận Đài Loan, hận người Tây Tạng, hận dân tộc thiểu số Tân Cương, hận giáo hội độc lập, hận các nhân sĩ bất đồng chính kiến v.v., nhất là điều quan trọng nhất là hận nước Mỹ. Ở trong cư dân mạng Trung Quốc có lưu truyền một câu nói thế này: “Chuyện nhỏ thì tìm Nhật Bản, chuyện lớn thì tìm nước Mỹ”, ý là chính quyền Trung cộng gặp phải chuyện phiền phức nhỏ thì kích động tâm tình chống Nhật trong dân gian, gặp phải rắc rối lớn thì kích động tình cảm chống Mỹ, để chuyển dịch góc nhìn của dân chúng. Thông qua kích động bài ngoại để vượt qua khủng hoảng về thống trị, những việc như thế này tái diễn hết lần này đến lần khác ở Trung Quốc.
Trước khi Trung cộng thành lập chính quyền đã nhiều lần khen ngợi lòng hữu hảo của nước Mỹ đối với Trung Quốc và chế độ dân chủ của Mỹ, nhưng sau khi thành lập chính quyền, lập tức lợi dụng tâm lý yếu thế cận đại của Trung Quốc và nóng lòng tự cường của người Trung Quốc, khơi dậy tình cảm hận thù Mỹ, hận thù hải ngoại, tâng bốc bản thân thành cứu tinh của dân tộc. Trên thực tế, Trung cộng hoàn toàn không đoái hoài đến sống chết của dân chúng Trung Quốc, cũng không đoái hoài đến lãnh thổ của Trung Quốc, càng không đoái hoài sự phát triển lành mạnh lâu dài của dân tộc Trung Hoa. Tội ác của việc Trung cộng bức hại dân chúng Trung Quốc, bán đất đai tổ quốc, phá hoại đạo đức và văn hoá truyền thống, huỷ đi tiền đồ tương lai của Trung Quốc đến chặt hết trúc cũng không ghi hết tội. Về việc Trung cộng kích động lòng thù hận đối với nước ngoài, động cơ thật sự của nó có 4 điểm: Một, tô vẽ cho bản thân, xưng tụng công lao, tạo ra tính hợp pháp cho sự thống trị tàn bạo của nó; hai, gặp phải lúc khó khăn thì chuyển dịch sự chú ý của dân chúng, thông qua khơi dậy thù hận và tình cảm chủ nghĩa dân tộc để vượt qua quan ải khó; ba, làm chuẩn bị cho dã tâm khuếch trương của Trung cộng, che giấu mưu đồ tà ác của nó dưới cái gọi là chiêu bài tự cường dân tộc, cường quốc rửa nhục; bốn, dùng hận thù để làm động viên dư luận và chuẩn bị tâm lý cho chiến tranh trong tương lai, với thủ đoạn vô lý tính không còn bất kể giới tuyến đạo đức nào để giành lấy sự ủng hộ với mức độ tối đa.
Một thế hệ thanh niên đã bị Trung cộng nhồi nhét đầy đầu những tư tưởng căm thù Mỹ, trở thành công cụ thuần phục cho Trung cộng thay thế nước Mỹ, xưng bá toàn cầu. Một khi thời cơ chín muồi, Trung cộng ắt sẽ lợi dụng họ, dùng các loại thủ đoạn để thâm nhập tấn công các quốc gia tự do phương Tây mà Mỹ là dẫn đầu, lúc cần thiết không tiếc phát động chiến tranh thảm khốc, kể cả chiến tranh không giới hạn và chiến tranh hạt nhân. Sau vụ tấn công khủng bố 11/9, một loạt cư dân mạng Trung Quốc hoan hô, cho thấy rõ rằng chiến lược tuyên truyền từ đầu đến cuối xuyên suốt việc chấp chính của Trung cộng đã đơm hoa kết trái. Trên các diễn đàn thời sự-chính trị lớn và các diễn đàn quân sự của Trung Quốc, “Trung Mỹ ắt phải chiến một trận” hô hào mãi không dứt, cũng là tiêu chí cho sự thành công của việc tuyên truyền thù hận nước Mỹ của Trung cộng. Đó là cuộc động viên chiến tranh chống Mỹ với khoảng thời gian dài, theo phương thức tiệm tiến mà Trung cộng đã dày công suy tính.
Tuyên truyền thù hận Mỹ của Trung cộng không chỉ giới hạn ở trong nước. Ở quốc tế, Trung cộng và những quốc gia chống Mỹ kia chí khí hợp nhau, hợp nên thế lực chống Mỹ trên toàn cầu, kích động nên tâm thái căm thù Mỹ trên quốc tế, trở thành “lãnh tụ tinh thần” và “đại ca dẫn đầu” phe thù hận Mỹ trên quốc tế. Nó ủng hộ những quốc gia lưu manh, tổ chức khủng bố chống lại Mỹ hoặc công khai hoặc âm thầm, viện trợ kinh tế, trang bị vũ khí, cơ sở lý luận, huấn luyện chiến thuật và hỗ trợ dư luận cho chúng. Trung cộng không hơn không kém chính là cái trục tà ác trên thế giới hiện nay.
1.5 Vứt bỏ Ẩn mình chờ thời, cao giọng “lượng kiếm” đối với Mỹ
Năm 2008 nước Mỹ nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính. Tại năm ấy, ở thế vận hội quý giá nhất trong lịch sử, Bắc Kinh đã thúc đẩy hình ảnh Trung Quốc được đóng bao bì “thịnh thế” ra vũ đài quốc tế. Trong quá trình toàn cầu hoá, nước Mỹ với sản nghiệp dần dần rỗng ruột, về kinh tế đối diện với khó khăn, nên phải thỉnh cầu Trung Quốc ra tay giúp đỡ, “nước Mỹ dựa vào đồng tiền của người dân Trung Quốc sống qua ngày” đã trở thành chủ đề lăng xê không e dè của Trung cộng. “Nước Mỹ đang xuống dốc, Trung Quốc sẽ thay thế”, loại dư luận này đã chiếm chủ đạo trên truyền thông của Trung cộng, thậm chí còn trở thành cách nhìn thịnh hành của truyền thông và giới học thuật phương Tây.
Sau năm 2008, về các phương diện như kinh tế, quân sự và chính trị nước Mỹ đều tỏ ra suy giảm: về kinh tế, đặt trọng điểm vào thúc đẩy bảo hiểm y tế toàn dân, mở rộng phúc lợi, lấy chủ đề khí hậu làm nền tảng cho việc chấp chính, tăng cường giám sát bảo vệ môi trường, bóp nghẹt các ngành chế tạo truyền thống, mà công nghiệp năng lượng mới lại bị [các sản phẩm] “Made in China” đánh đến mức thua sấp mặt, công nghiệp cứ liên tục rỗng ruột, thiếu các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn việc Trung Quốc gây ra những tổn hại to lớn đối với Mỹ về mặt thương mại và quyền sở hữu trí tuệ, tiêu cực chấp nhận việc “Trung Quốc trỗi dậy” và nước Mỹ suy thoái là hiện thực không thể tránh khỏi; về quân sự, bắt đầu cắt giảm chi phí quân sự, chủ trương ngoại giao yếu thế; về chính trị, trào lưu tư tưởng XHCN ở Mỹ ngày càng hưng khởi, chia rẽ xã hội ngày càng lớn, chính trị dân chủ trở thành trò chơi của lợi ích đảng phái, dễ dàng làm tê liệt chức năng chính phủ. Ngược lại với mô thức chuyên chế “tập trung lực lượng làm chuyện lớn” của Trung cộng, chế độ dân chủ của Mỹ ngược lại trở thành ví dụ phản diện khiến Trung cộng cười nhạo.
Năm 2010, Trung Quốc vượt qua Nhật bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Dữ liệu Ngân hàng thế giới năm 2014 công bố cho thấy, tính theo sức mua tương đương thì Tổng sản phẩm nội địa(GDP) của Trung Quốc năm đó sắp vượt qua Mỹ.[4] Khi nhìn thấy tương quan thực lực giữa Trung-Mỹ đang xảy ra biến hoá to lớn, cho rằng cái thế suy bại của nước Mỹ là điều không thể đảo ngược, Trung cộng cuối cùng cũng vứt bỏ “ẩn mình chờ thời” trong hơn 30 năm, muốn nhắm vào trật tự quốc tế mà nước Mỹ [đang] chủ đạo để cao giọng “lượng kiếm”. Quan chức, truyền thông và chuyên gia Trung cộng dần dần miệng không giấu giếm, cổ vũ ầm ĩ cho “giấc mộng Trung Quốc”, lại càng biểu lộ dã tâm của nó một cách lộ liễu. Năm 2012, đại hội thứ 18 của Trung cộng đã đề ra việc xây dựng “Cộng đồng vận mệnh nhân loại”, vào năm 2017 tổ chức “Đại hội chính đảng toàn cầu”, tạo ra giả tượng về “vạn bang đến triều”, nóng lòng xuất khẩu ra thế giới “mô hình Trung Quốc (cộng)”, dã tâm này đã lên đến đỉnh điểm.
Hiện giờ điều Trung cộng đề xuất là “mô hình Trung Quốc”, cung cấp cho thế giới “phương án Trung Quốc”, “trí tuệ Trung Quốc” v.v., lấy cờ hiệu Trung Quốc, nhưng ý đồ chân thực đằng sau là Trung cộng muốn trở thành lãnh tụ thế giới, thiết lập trật tự thế giới mới lấy chính quyền Trung cộng làm trục xoay, và vì điều này đã làm những chuẩn bị dày công trường kỳ trên rất nhiều phương diện. Trật tự thế giới mới này nếu như thành hiện thực, thì sẽ xuất hiện “trục tà ác”, “đế quốc tà ác” không hơn không kém. Lãnh đạo và nhân dân các nước trên thế giới đều đang đối diện với sự lựa chọn còn nghiêm khắc hơn cả thời khắc trước chiến tranh thế giới thứ 2.
2. Chiến lược xưng bá toàn cầu của Trung cộng
2.1 “Nhất đới nhất lộ” – lấy danh nghĩa toàn cầu hoá để khuếch trương bản đồ
2.1.1 “Nhất đới nhất lộ” lên đài
Năm 2013 Trung cộng chính thức đề xuất “vành đai kinh tế con đường tơ lụa” và “con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21”, gọi tắt là đề xuất “nhất đới nhất lộ”. Đề xuất này cho hay Trung Quốc sẽ đầu tư hàng trăm tỷ đô-la, xây dựng các cây cầu, đường sắt, cảng biển và nguồn năng lượng chủ yếu ở hàng chục quốc gia, muốn làm nên một hành động đầu tư nước ngoài khởi phát bởi một nước đơn nhất với quy mô lớn nhất từ trước đến nay.
Nhất đới, chính là “vành đai kinh tế con đường tơ lụa”, là ở trên lục địa, có ba hướng đi lớn, một là xuất phát từ Trung Quốc, qua Trung Á, Nga đến Châu Âu, biển Baltic; hai là từ Tây Bắc Trung Quốc qua Trung Á, Tây Á đến vịnh Ba Tư, Địa Trung Hải; ba là từ Tây Nam Trung Quốc qua bán đảo Đông Dương đến Ấn Độ Dương. “Nhất lộ” là chỉ “con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21”, có hai hướng đi lớn, một là từ các cảng vùng duyên hải Trung Quốc qua Biển Đông, qua eo biển Malacca đến Ấn Độ Dương, kéo dài đến Châu Âu; hai là từ các cảng vùng duyên hải Trung Quốc qua Biển Đông, kéo dài đến Nam Thái Bình Dương.
Cái khung chủ yếu của “nhất đới” trên lục địa hiện nay có 6 hành lang kinh tế lớn: Cầu đại lục Á-Âu mới, Trung Quốc-Mông Cổ-Nga, Trung Quốc-Trung Á-Tây Á, Trung Quốc-Bán đảo Đông Dương, Trung Quốc-Pakistan, Bangladesh-Trung Quốc-Ấn Độ-Myanmar. Nói một cách cụ thể, Cầu đại lục Á-Âu mới là dựa vào vận tải đường sắt của “Đường sắt cao tốc Trung Quốc” (China Railway Express). Vận tải biển từ Trung Quốc đến Châu Âu tốn mất hơn 30 ngày, còn thông qua đường sắt chỉ cần hơn 10 ngày. Đường sắt Trung-Âu bắt đầu vận hành từ năm 2011, trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của “nhất đới nhất lộ”. Hành lang kinh tế Trung Quốc-Pakistan là kế hoạch xây dựng quy mô lớn hợp tác giữa hai nước, là hạng mục ngọn cờ đầu (flagship) và then chốt của nhất đới nhất lộ, bao gồm xây dựng con đường cao tốc từ Khách Thập-Tân Cương đến Cảng Gwadar của Pakistan. Cảng Gwadar năm 2013 giao cho phía Trung Quốc vận hành, là cánh cổng lớn từ Pakistan thông đến Vịnh Ba Tư và Biển Ả Rập, vị trí chiến lược trọng yếu, án ngữ con đường trên biển từ Eo biển Hormuz đến Biển Ả Rập, chiếm 40% lượng dầu thô cung ứng toàn cầu.
Trụ cột chính của “nhất lộ” trên biển là xây dựng chung một loạt các cảng biển và thành thị đầu mối quan trọng, tranh đoạt quyền khống chế vận tải biển. Đối với các nước có thực lực khá mạnh, thì [Trung Cộng] lựa chọn trước tiên tham gia cổ phần hoặc hợp tác kinh doanh bến tàu thiết lập quan hệ, đối với các nước tương đối nghèo thì lại lợi dụng kinh doanh để kéo theo nền kinh tế, gắng sức có được quyền khống chế các cảng biển hoặc bến tàu. Chỉ trong năm 2013, các công ty Trung Quốc đã có được ít nhất quyền kinh doanh của 17 cảng biển hoặc bến tàu hải ngoại. Trong đó, Công ty cảng biển Cục chiêu thương thông qua việc mua 49% cổ phần của Công ty cảng biển Terminal Link của Pháp, đã thu được quyền kinh doanh của 15 bến tàu ở 8 quốc gia và 4 châu lục dưới danh nghĩa của công ty này.[5] Trong những năm này những cảng biển mà Trung cộng đầu tư hoặc mua được gồm có cảng Antwerp và bến tàu Zeebrugge của Bỉ, bến tàu Kênh đào Suez của Ai Cập, bến tàu Istanbul Kumport của Thổ Nhĩ Kỳ, cảng Piraeus của Hy Lạp, bến tàu Pasir Panjang của Singapore, bến tàu Euromax ở Rotterdam là cảng biển lớn nhất của Hà Lan, được mệnh danh là “cửa ngõ Châu Âu”, bến tàu số 2 cảng Caliphate của Abu Dhabi – Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, bến tàu Vado của Ý, cảng Kuantan ở eo biển Malacca, cảng Djibouti ở Châu Phi, Kênh đào Panama v.v.. Ngoài việc đầu tư, Trung cộng còn thông qua nhất đới nhất lộ tạo ra những bẫy nợ để thu về những địa điểm quan trọng chiến lược. Sri Lanka vì không có sức trả nợ công ty Trung Quốc, cuối năm 2017 đã ký một bản hợp đồng cho thuê kỳ hạn 99 năm, chính thức chuyển giao cảng Hambantota có ý nghĩa chiến lược cho Trung Quốc.
Năm 2018 Trung cộng lại đề xuất “con đường tơ lụa kỹ thuật số”, mục tiêu là cải tạo phát triển của mạng Internet toàn cầu trong tương lai. “Con đường tơ lụa kỹ thuật số” là giai đoạn cao cấp của nhất đới nhất lộ, trở thành động lực mới nhất thúc đẩy “nhất đới nhất lộ”. Trọng điểm của “con đường tơ lụa kỹ thuật số” là kiến thiết hạ tầng cơ sở thông tin cáp quang, Internet, phục vụ thông tin kỹ thuật số, thông tin quốc tế cũng như thương mại điện tử. Rất nhiều quốc gia có liên quan với “nhất đới nhất lộ” không có chế độ tín dụng hoàn chỉnh, Trung cộng hi vọng mượn “con đường tơ lụa kỹ thuật số” để quảng bá mô hình thương mại điện tử và phương tiện thanh toán điện tử, chẳng hạn như Alipay, đến những quốc gia này, triệt để bài trừ thương mại điện tử của phương Tây. “Tường lửa Trường thành” phỏng toả mạng là tuyệt kỹ độc môn của Trung cộng, cũng sẽ thuận theo “con đường tơ lụa kỹ thuật số” mà xuất khẩu ra ngoài, xuất khẩu kỹ thuật khống chế mạng Internet của Trung cộng đến nhiều quốc gia hơn nữa.
Từ quy mô đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trên toàn thế giới có thể thấy rõ phạm vi chiến lược của Trung cộng. Theo tổng kết của “Thời báo New York” tháng 11 năm 2018, Trung cộng đã hoặc đang thi công hơn 40 ống dẫn hoặc các hạ tầng cơ sở dầu khí khác ở các nước, hơn 200 cây cầu, đường bộ và đường sắt; gần 200 nhà máy điện hạt nhân, khí thiên nhiên, than đá và các nhà máy dùng nguồn năng lượng tái sinh để phát điện, cho đến một loạt các đập thuỷ điện lớn. Trung cộng có các hạng mục đầu tư ở 112 quốc gia, đa số thuộc kế hoạch cơ sở hạ tầng “nhất đới nhất lộ”. Nếu như vẽ lên một tấm bản đồ, thì dày chi chít đều là các hạng mục đầu tư của Trung cộng. Xúc tu của Trung cộng đã phân bố khắp toàn cầu.
Thuận theo việc “nhất đới nhất lộ” dần dần hình thành, mục đích và dã tâm của Trung cộng cũng không ngừng bành trướng. Thông qua “nhất đới nhất lộ”, mưu đồ của Trung cộng là tạo ra một vành đai kinh tế và phạm vi thế lực của mình để đối chọi thậm chí thay thế Mỹ; tiền tệ thì dùng Nhân dân tệ, tín dụng thì dựa vào hệ thống thanh toán của Trung cộng, thông tín thì lựa chọn hệ thống mạng được cài đặt và điện thoại được chế tạo bởi Trung Quốc (bao gồm kỹ thuật 5G), giao thông thì dùng đường sắt cao tốc của Trung Quốc, xây dựng lên một bộ tiêu chuẩn Trung cộng lấy “Made in China” làm trung tâm độc lập với bộ tiêu chuẩn của phương Tây.
2.1.2 Sự khuếch trương toàn cầu của “nhất đới nhất lộ”
Thời kỳ bắt đầu “nhất đới nhất lộ”, lấy các nước láng giềng của Trung Quốc làm đối tượng, xa nhất thì cũng chỉ đến Châu Âu, nhưng rất nhanh đã vượt qua phạm vi này, rồi gộp cả Châu Phi, Châu Mỹ Latinh thậm chí Bắc Băng Dương, khuếch trương đến toàn thế giới. Con đường tơ lụa trên biển vốn chỉ có hai con đường, về sau đã tăng thêm con đường thứ ba –tuyến đường biển Bắc Cực qua Bắc Băng Dương nối đến Châu Âu, gọi là “con đường tơ lụa trên băng”. Ở Châu Phi và Mỹ Latinh, Trung cộng sớm đã có hoạt động kinh tế rộng khắp, hiện giờ cũng đều thống nhất lại vào trong cái khung chính của “nhất đới nhất lộ”, tiến hành bố cục kinh tế thậm chí là quân sự ở Châu Phi và Mỹ Latinh với cường độ lớn hơn, tốc độ nhanh hơn.
Động cơ trực tiếp nhất của “nhất đới nhất lộ” của Trung cộng là xuất khẩu năng suất sản xuất dư thừa, chính là đưa chiến lược “Thiết Công Cơ” (xây dựng cơ bản như đường sắt, đường bộ) từ quốc nội ra hải ngoại. Những quốc gia dọc tuyến đường có rất nhiều tài nguyên, nguồn năng lượng, việc Trung cộng giúp đỡ họ thi công đường sắt, đường bộ có thể nhất tiễn hạ song điêu, một là mở ra thông đạo trên lục địa để xuất khẩu sản phẩm sang Châu Âu nhanh hơn và rẻ hơn, hai là thu được tài nguyên và nguồn năng lượng cần thiết. Bởi vì tiền đề chẳng qua là vì mở rộng xuất khẩu cho “công xưởng thế giới”, cho nên Trung cộng không phải là muốn nâng đỡ ngành chế tạo của các quốc gia trong “nhất đới nhất lộ”, và chuyển dịch ngành chế tạo của Trung Quốc đến những quốc gia này. Dã tâm thực sự của Trung cộng là lấy kinh tế làm tiên phong, dần dần khống chế mạch sống kinh tế và chính trị của những quốc gia dọc theo “nhất đới nhất lộ”, biến họ trở thành phạm vi thế lực của Trung cộng thậm chí là thuộc địa, trở thành con cờ trong bố cục toàn cầu của Trung cộng. Là sản phẩm phụ, “nhất đới nhất lộ” xuất khẩu tham nhũng hủ bại, nợ nần, tà ác và chuyên chế sang các nước láng giềng, đưa độc tố chủ nghĩa cộng sản phát tán ra toàn cầu. Cho nên, “nhất đới nhất lộ” từ căn bản chính là một cạm bẫy và lừa đảo, sẽ không mang đến cho quốc gia bản địa sự phát triển kinh tế bền vững.
Có rất nhiều quốc gia bắt đầu cảnh giác, kêu dừng hoặc xem xét lại những dự án “nhất đới nhất lộ”; bản thân Trung cộng cũng đành phải biểu thị, rằng muốn chỉnh sửa và tăng độ minh bạch của vấn đề bẫy nợ mà ngoại giới chỉ trích. Nhưng việc Trung cộng không tiếc mọi giá để quyết tâm thực hiện dã tâm của nó là không thể khinh thường. Đối với các công ty phương Tây mà nói, họ sẽ không có ý định gì lâu dài ở một quốc gia bất ổn, nhưng Trung cộng tính toán thì không phải chỉ là kế hoạch mấy năm, mà là kế hoạch trên trăm năm. Nó có thể không tính đến chi phí, cứ trường kỳ kinh doanh ở một địa phương bất ổn. Điều nó muốn là bồi dưỡng chính phủ thân cộng, có thể làm đồng lõa cho nó ở Liên Hợp Quốc. Dã tâm của Trung cộng muốn làm minh chủ của “Á-Phi-Mỹ Latinh”, muốn đối kháng với thế giới tự do từ đó thay thế nước Mỹ, khiến nó có thể không tiếc sống chết của người dân của mình. Các công ty tư nhân phương Tây không gánh vác nổi chi phí, còn Trung cộng có thể rất nhẹ nhàng khiến cho một tỷ mấy nhân dân Trung Quốc thắt lưng buộc bụng mà gồng gánh. Trong cuộc chiến tranh đoạt bá quyền thế giới này, không phải bản thân Trung cộng “lợi hại” thế nào, mà là Trung cộng lấy tỷ mấy người dân Trung Quốc làm con tin, hi sinh nhân dân Trung Quốc để gồng gánh bất cứ chi phí nào.
Cựu cố vấn cấp cao của Nhà Trắng – ông Bannon có sự giải thích độc đáo về chiến lược “nhất đới nhất lộ”. Ông cho rằng cái chỗ to gan của “nhất đới nhất lộ”, chính là đem ba loại lý luận địa chính trị về việc làm thế nào để thống trị thế giới của 3 người Mackinder-Mahan-Spykman hợp lại, tổ hợp thành một kế hoạch hoàn chỉnh.[7] Nhà địa lý học và lịch sử học người Anh là Ngài Halford John Mackinder đã chỉ ra rằng ai khống chế được Dải đất trung tâm (tức Trung Á) thì người đó sẽ khống chế được Đảo thế giới (tức Âu-Á); ai khống chế được Đảo thế giới thì có thể khống chế được thế giới. Học giả lịch sử hải quân Mỹ – ông Alfred Thayer Mahan đề xuất chiến lược khống chế quyền lực biển: ai khống chế con đường biển thương mại toàn cầu, các cứ điểm mấu chốt và kênh đào thì có thể khống chế thế giới. Còn giáo sư đại học Yale – ông Nicholas John Spykman lại cho rằng, đường bờ biển bao quanh Châu Á còn quan trọng hơn cả Dải đất trung tâm (Trung Á), ai khống chế được bờ biển này thì có thể khống chế Âu-Á; ai khống chế được Âu-Á thì có thể khống chế cả thế giới. Quan điểm của Bannon phản ánh sự cảnh giác của phương Tây đối với “nhất đới nhất lộ” và dã tâm của Trung cộng.
Kỳ thực, dã tâm của Trung cộng còn vượt xa hơn thế rất nhiều. “Nhất đới nhất lộ” cũng không phải là chỉ tập trung vào chiếm lĩnh quyền lực đất liền, quyền lực biển hoặc cảng biển mấu chốt, nó hoàn toàn chính là dùi vào sơ hở trên khắp thế giới không đâu không nhập vào. Sau khi rất nhiều nước giành được độc lập từ các mẫu quốc thực dân ở Châu Á-Châu Phi-Mỹ Latinh, đã xuất hiện khoảng trống quyền lực, tự nhiên sẽ trở thành mục tiêu của Trung cộng; những quốc gia được độc lập sau khi Liên Xô giải thể, sự khống chế của mẫu quốc yếu đi, cũng trở thành mục tiêu của Trung cộng; một số nước hoặc khu vực chiến loạn bất ổn và xung đột mà khiến cho các công ty phương Tây thấy mà chùn bước, thì Trung cộng cũng thâu tóm tất; các nước nhỏ, các đảo quốc, những nước kinh tế lạc hậu, những nước có giá trị lợi dụng chiến lược, đều là món ngon trong con mắt Trung cộng; chỉ tính những nước trong bản đồ truyền thống của phương Tây, bởi vì kinh tế trì trệ, nợ đầm đìa, cũng đều trở thành miếng thịt trên thớt của Trung cộng. Từ mặt địa chính trị mà xét, Trung cộng chính là bao vây nước Mỹ lại một cách dần dần không cảm giác, dùng lợi ích kinh tế để khống chế quốc gia bản địa, dần dần đưa nước Mỹ ra rìa ở những quốc gia này, cuối cùng tước bỏ, từ đó thiết lập nên một trật tự quốc tế khác với hiện nay, một trật tự thế giới mới lấy giá trị quan hạt nhân của Trung cộng làm cơ sở. Loại thủ pháp này, nghiễm nhiên giống hệt như mánh khoé cũ của Trung cộng là “nông thôn bao vây thành thị”, cuối cùng là muốn thay thế nước Mỹ, phục vụ dã tâm toàn cầu của Trung cộng.
2.2 Vành đai chiến lược “Ngoại giao vùng biên lớn” – dồn ép nước Mỹ ra khỏi Châu Á-Thái Bình Dương (TBD)
Chiến lược vùng biên lớn của Trung cộng là gì? Chiểu theo định nghĩa của viện chiến lược Trung cộng: “Trung Quốc có 14 nước láng giềng trên đất liền, 6 nước đối diện trên biển; vươn ra xa hơn nữa, phía Đông thì có Châu Á-TBD, phía Tây thì là cả đại lục Âu-Á. Có nghĩa là, mặt chiếu xạ của vùng biên Trung Quốc về chính trị, kinh tế, an ninh thế giới đã chiếm tỉ lệ từ 2/3 trở lên. Bởi vậy bố cục ngoại giao vùng biên không chỉ là một chiến lược khu vực, càng không chỉ là một chiến lược vùng biên, mà là một chiến lược lớn thật sự.”[8]
2.2.1 Châu Úc là mối liên kết yếu của phương Tây
Tháng 6 năm 2017, sau 5 tháng hợp tác điều tra hãng tin FairFax và công ty phát thanh Australia đã công bố bộ phim tài liệu “Quyền lực và ảnh hưởng: Đảng cộng sản Trung Quốc thâm nhập Australia như thế nào” tiết lộ sự thâm nhập, hoạt động khống chế Châu Úc ngang ngược của Trung cộng, bộ phim đã thu hút sự chú ý của toàn thế giới.[9] Sáu tháng sau, nghị sĩ Công đảng Australia là Sam Dastyari tuyên bố từ chức thượng nghị sĩ, vì ông này bị phanh phui là đã nhận tiền của các thương nhân đỏ Trung cộng, sau đó về vấn đề Biển Đông đã phát biểu những ngôn luận có lợi cho Trung cộng nhưng lại sai khác với lập trường của chính đảng đó và ngay cả với lập trường của chính phủ.[10] Tháng 9 năm 2016 hãng tin Châu Úc là SBS đã đăng bài viết, phơi bày việc một thương gia Trung Quốc giàu có tài trợ chính trị ở Châu Úc, trực tiếp ảnh hưởng đến chính sách thương mại đối với Trung Hoa của Châu Úc.[11] Không chỉ như vậy, cơ cấu truyền thông Trung cộng mấy năm gần đây còn ký được hiệp định với truyền thông Australia, đồng ý việc truyền thông Châu Úc phân phối nội dung của truyền thông Trung cộng.[12]
Trên thực tế, sớm từ năm 2015, Châu Úc đã cho một công ty Trung Quốc có liên hệ với quân đội Trung cộng thuê cảng Darwin, kỳ hạn thuê 99 năm. Cảng Darwin là điểm mấu chốt quân sự trọng yếu nhất của Australia để phòng vệ các cuộc tấn công từ phương Bắc. Lúc bấy giờ cựu thứ trưởng ngoại giao của Mỹ – ông Richard Armitage cho biết, điều này khiến người ta cảm thấy “kinh động”, hành động này khiến nước Mỹ cảm thấy trở tay không kịp.[13]
Năm 2017, học giả Châu Úc là Clive Hamilton đưa ra bản thảo cuốn sách “Xâm lược thầm lặng: Ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Australia”, nhưng liên tiếp có 3 nhà xuất bản Úc từ chối xuất bản, bởi vì họ sợ đắc tội Trung cộng. Cuối cùng nhà xuất bản thứ 3 đã suy nghĩ lại và cho xuất bản, cuốn sách này mới được xuất hiện. Việc này càng khiến cho người dân Úc lo lắng về ảnh hưởng và thao túng của Trung cộng đối với Châu Úc.[14]
Càng nhiều người hơn nữa mong muốn biết rằng, Trung cộng vì sao lại xem trọng Châu Úc như vậy? Sự thao túng và thâm nhập của Trung cộng tại Châu Úc có tác dụng gì trong viễn cảnh chiến lược của nó?
Vào đầu tháng 12 năm 2017 Quỹ Dân chủ quốc gia Mỹ đã đăng một báo cáo: “Thực lực sắc bén: Sức ảnh hưởng đang lên của chủ nghĩa chuyên chế” (Sharp Power: Rising Authoritarian Influence), chỉ ra rằng, Trung Quốc (cộng) dùng dụ dỗ lợi ích và thẩm thấu để ảnh hưởng và thay đổi chính giới và giới học thuật Úc, một mục đích chủ yếu là làm suy yếu liên minh Mỹ-Úc.[15]
“Trong toàn bộ lịch sử của Australia sau chiến tranh thế giới II, nước Mỹ luôn là lực lượng chủ đạo của khu vực chúng ta. Hôm nay, Trung Quốc (cộng) đang khiêu chiến địa vị của nước Mỹ”, sách trắng chính sách ngoại giao Australia công bố năm 2017 nói như vậy.[16] Nhà phân tích quốc phòng của Viện nghiên cứu chính sách chiến lược Australia – ông Malcolm Davis chỉ ra, Bắc Kinh cố gắng thu được ưu thế chiến lược ở khu vực Châu Úc, mục tiêu của nó là “Cuối cùng kết thúc liên minh (Mỹ-Úc)”.[17]
Australia là nơi thí nghiệm đầu tiên của Trung cộng trong việc mở rộng quyền lực mềm ra hải ngoại.[18] Là một nước cờ quan trọng của chiến lược vùng biên lớn, sự thâm nhập của Trung cộng đối với Châu Úc có thể truy ngược lại từ năm 2005. Lúc đó phó Bộ trưởng Bộ ngoại giao Trung Cộng là Châu Văn Trọng đến Canberra, truyền đạt cho quan chức cao cấp ở đại sứ quán Trung cộng chiến lược mới của Trung ương. Ông ta nói, mục tiêu đầu tiên trong việc đưa Australia nhập vào khu vực vùng biên lớn là bảo đảm Australia trở thành căn cứ cung ứng tài nguyên đáng tin cậy và ổn định để Trung cộng duy trì tăng trưởng kinh tế trong 20 năm trong tương lai. Mục tiêu lâu dài là chia tách liên minh Mỹ-Úc. Nhiệm vụ của những người tham gia họp là làm rõ làm thế nào để Trung cộng có thể thực hiện một cách hiệu quả nhất cái gọi là “sức ảnh hưởng tổng hợp các phương diện về kinh tế – chính trị – văn hoá đối với Australia”.[19]
Trung cộng lợi dụng thủ đoạn kinh tế để ép buộc Australia phải nhượng bộ về một loạt các vấn đề bao gồm quân sự và nhân quyền. Dùng lợi ích kinh tế để bồi dưỡng quan hệ mật thiết giữa người với người, đồng thời thêm vào đó là uy hiếp trừng phạt, [những điều đó] là phương thức hoạt động tiêu chuẩn [quen thuộc] mà Trung cộng dùng để ép người ta phải hợp tác. Bắc Kinh hi vọng biến Australia trở thành “Nước Pháp thứ hai”, một quốc gia phương Tây dám nói “không” với Mỹ.[20]
Sau nhiều năm điều tra kỹ lưỡng ông Hamilton phát hiện, “Những cơ cấu của Australia – từ trường học, đại học và hiệp hội chuyên nghiệp cho đến truyền thông của chúng ta; từ những ngành khai khoáng, nông nghiệp và du lịch đến những tư sản chiến lược như cảng biển và mạng lưới điện; từ nghị viện địa phương và chính phủ liên bang của chúng ta, đến chính đảng tại Canberra của chúng ta – đang bị thâm nhập và cải tạo bởi một hệ thống khống chế phức tạp dưới sự giám sát của Trung cộng.” [21]
Sau khủng hoảng tài chính năm 2008, trên thực tế Australia đã tự nguyện coi bản thân là căn cứ cung ứng tài nguyên cho Trung cộng, cho rằng Trung cộng đã cứu vãn nền kinh tế Australia từ trong khủng hoảng. Hamilton chỉ ra, sở dĩ sự thâm nhập và ảnh hưởng của Trung cộng có hiệu quả tại Châu Úc, là vì người Châu Úc “cứ luôn cho phép nó xảy ra ngay trước mũi của chúng ta, vì chúng ta bị mê hoặc bởi niềm tin rằng chỉ có Trung Quốc mới có thể bảo đảm cho sự phồn vinh của nền kinh tế chúng ta, cũng như chúng ta không dám đứng lên chống lại sự ức hiếp của Bắc Kinh”.[22]
Đại đa số những người phương Tây lương thiện lúc mới đầu mặc dù cũng ý thức được sự thẩm thấu và ảnh hưởng của Trung cộng tại xã hội phương Tây, đặc biệt là đối với sự thâm nhập và khống chế cộng đồng người Hoa hải ngoại, thì cũng chỉ ngây thơ cho rằng, mục tiêu chủ yếu của các loại sách lược của Trung cộng là “tiêu cực (negative)” – vì để loại trừ những tiếng nói của những nhà bất đồng chính kiến và nhà phê bình. Nhưng Hamilton chỉ ra, đằng sau mục tiêu “tiêu cực” này, đồng thời có một dã tâm “tích cực” – lợi dụng kiều dân để thay đổi hình thức xã hội Australia, khiến người phương Tây đều đồng tình với Trung cộng, để Bắc Kinh nhẹ nhàng khống chế. Sau đó, Australia sẽ hiệp trợ Trung cộng trở thành bá quyền của Châu Á và cả thế giới.[23]
Một cách tương tự, sự thâm nhập và khống chế của Trung cộng cũng vươn ra một nước khác ở Châu Đại Dương là New Zealand, ở đây chỉ nêu ra vài ví dụ. Tháng 9 năm 2017 Chuyên gia về vấn đề Trung Quốc ở Đại học Canterbury New Zealand – giáo sư Anne-Marie Brady đã công bố báo cáo “Vũ khí ma thuật” (Magic Weapons), lấy New Zealand làm ví dụ để tường thuật việc Trung cộng ảnh hưởng thâm nhập ở hải ngoại, gây ra sức ảnh hưởng chính trị như thế nào. Trong đó nội dung được tiết lộ bao gồm số các nghị viên gốc Hoa đương nhiệm ở quốc hội New Zealand có liên hệ mật thiết với Trung cộng, cũng như những khoản tiền tài trợ chính trị cực lớn của các tổ chức [thuộc loại] mặt trận thống nhất như các thương gia đỏ giàu có đến từ Trung Quốc, hiệp hội thương gia người Hoa.[24] Không lâu sau khi giáo sư Brady công bố báo cáo về việc Trung Quốc ảnh hưởng và thâm nhập ở New Zealand, văn phòng đại học của bà bị trộm đột nhập lấy cắp. Trước khi mất cắp, bà còn nhận được một phong thư cảnh cáo nặc danh, trong thư liệt kê tường tận những biện pháp trả thù được tiến hành nhắm vào những quan chức mà không đi theo con đường của Bắc Kinh, và cảnh cáo bà rằng: “Bà sẽ là người kế tiếp”.[25]
Trung Quốc còn tích cực lôi kéo chính khách bản địa của New Zealand: chẳng hạn dùng lễ nghi cực cao để tiếp đãi những nhân vật trọng yếu trong các chính đảng ở New Zealand đến thăm Trung Quốc, trả lương cao thuê rất nhiều các cựu chính khách New Zealand đảm nhiệm những chức vị quan trọng ở các công ty Trung Quốc, hoặc thông qua các phương thức khác để tiến hành chuyển lợi ích đến họ, để khiến họ nghe lời Trung cộng.[26]
2.2.2 Trung cộng thèm thuồng giá trị chiến lược của các đảo quốc ở Thái Bình Dương
Vùng biển Thái Bình Dương có giá trị chiến lược vô cùng quan trọng, mỗi một hòn đảo đều có thể trở thành cứ điểm trên biển quan trọng. Những đảo quốc Thái Bình Dương “Đảo nhỏ biển lớn”, tổng diện tích đất liền chỉ 530 nghìn km2, nhưng diện tích vùng đặc quyền kinh tế trên biển lại lớn hơn 19 triệu km2, tức là nhiều hơn gấp 6 lần diện tích vùng đặc quyền kinh tế trên biển của Trung Quốc. Trung cộng biểu thị rõ ràng, phát triển quan hệ với các đảo quốc Thái Bình Dương là quyết sách chiến lược của nó. Thế mà, hiện giờ vùng biển này lại thuộc về phạm vi thế lực của các nước như Mỹ, Nhật, New Zealand, Australia, Pháp, Trung cộng muốn phát triển hải quân trên Thái Bình Dương, thì việc lôi kéo các đảo quốc Thái Bình Dương là nhiệm vụ đầu tiên, tiếp đó mới có thể khiến những đảo quốc này ngả về phía Trung cộng, bài trừ thế lực nước Mỹ.[27] Giáo sư John Henderson người New Zealand và giáo sư Benjamin Reilly người Australia chỉ ra, mục tiêu lâu dài của Trung cộng ở khu vực Nam Thái Bình Dương, chính là muốn thay thế nước Mỹ trở thành bá quyền ở khu vực này.[28] Ở những quần đảo Melanesia, Micronesia và Polynesia, Trung cộng đã rót vào đầu tư lớn, giúp xây dựng những hạng mục hạ tầng cơ sở quan trọng, khuyến khích lượng lớn du khách đến thăm cũng như mở ra hệ thống thương mại điện tử, quy mô hành động của nó vượt rất xa nước Mỹ. Tác giả người Australia Ben Bohane cảnh báo rằng, nước Mỹ đang mất Thái Bình Dương vào tay Trung cộng.[29]
Sau khi Trung cộng viện trợ, đầu tư với quy mô lớn vào những đảo quốc này, quan chức Trung cộng biểu hiện ra ngôn từ hành động cuồng vọng, thể hiện ra tâm thái chân thực khi Trung cộng lớn mạnh, bản thân cảm thấy tốt đẹp: đối xử với các quốc gia khác giống như là đối xử với người Trung Quốc dưới sự thống trị chuyên chế của nó, khiến các quốc gia khác đều thần phục Trung cộng mới là mục đích của nó. Mong đợi Trung cộng tuân thủ chuẩn tắc quốc tế hiển nhiên là không thể nào.
Năm 2018 tại hội nghị thượng đỉnh APEC do Papua New Guinea tổ chức, một loạt những hành vi thô lỗ dã man của quan chức Trung cộng khiến người ta kinh ngạc là một lần phơi bày lớn về dã tâm của nó, những hành vi này bao gồm: 1) ngay tại nước chủ nhà mà hung hãn cản trở nhà báo (kể cả nhà báo của nước chủ nhà) tổ chức một cuộc họp báo phỏng vấn Tập Cận Bình và các nhà lãnh đạo các quốc gia Thái Bình Dương, yêu cầu nhà báo của tất cả các nước khi đưa tin phải chọn dùng bản thảo của Tân Hoa Xã. 2) Vì để cản trở ngôn từ khiển trách hành vi thương mại bất công của Trung cộng trong tuyên bố chung của hội nghị, quan chức Trung cộng đã yêu cầu hội kiến ngoại trưởng nước chủ nhà một cách bá đạo, nhưng vị này cho rằng hội kiến riêng với quan chức phía Trung Quốc sẽ ảnh hưởng tới tính trung lập, vì vậy đã từ chối yêu cầu của họ. Ai ngờ sau đó bốn quan chức Trung cộng đã có ý định ngang ngược xông vào văn phòng của ngoại trưởng, cuối cùng bị cảnh sát trục xuất nên chưa đạt được mục đích. 3) Trong hội nghị, khi quan chức Trung cộng cho rằng các nước khác đang “âm mưu” nhắm vào Trung cộng, họ liền hô to hét lớn trong hội trường. Rất nhiều hành vi xấu ác tại lần hội nghị này của Trung cộng, đã bị một vị quan chức cao cấp của Mỹ gọi là “ngoại giao phát khùng ”.[30]
2.2.3 Năm nước Trung Á: Dùng bẫy nợ để khống chế và cướp đoạt tài nguyên
Thuận theo việc Liên Xô giải thể, Trung cộng bắt đầu nỗ lực xây dựng và tăng cường mối quan hệ với các quốc gia Trung Á như Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Turkmenistan và Uzbekistan. Mục tiêu chiến lược của Trung cộng ở khu vực Trung Á bao gồm mấy tầng diện: đầu tiên, khu vực này là mảnh đất ắt phải qua khi Trung cộng mở rộng sang phía Tây trên đất liền, hơn nữa đồng thời với việc Trung cộng xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc xuất nhập hàng hoá ra vào Trung Quốc, thì có thể tiến một bước nữa mở rộng lợi ích thương nghiệp ở khu vực Trung Á; hai là chiếm lấy tài nguyên thiên nhiên tại khu vực này, trong đó bao gồm than, dầu mỏ, khí thiên nhiên và kim loại quý; thứ ba, về địa lý và văn hoá thì các nước Trung Á gần với Tân Cương, khống chế đối với khu vực này, có thể tăng cường khống chế đối với các dân tộc thiểu số ở Tân Cương.
Mặc dù Trung cộng chưa hề nói rõ là muốn làm chúa tể Trung Á, nhưng trên thực tế, hiện nay Trung cộng đã trở thành nhân vật có ảnh hưởng nhất ở khu vực này. Viện chiến lược “Nhóm khủng hoảng quốc tế” (International Crisis Group) có trụ sở đặt tại Brussels năm 2013 đã công bố một báo cáo chỉ ra rằng, trong sự hỗn loạn bất an của Trung Á, Trung cộng nhanh chóng trở thành nhân vật đóng vai trò kinh tế có địa vị chủ đạo ở khu vực này. Bắc Kinh coi Trung Á như là căn cứ nguồn năng lượng và nguyên vật liệu, cũng như thị trường cho hàng tiêu dùng giá rẻ. Trung cộng cũng bơm hàng trăm triệu USD viện trợ và đầu tư vào Trung Á, trên danh nghĩa là muốn thúc đẩy sự ổn định của khu tự trị Tân Cương.[31]
Đến nay, một mạng lưới đường bộ, đường sắt, không vận, thông tín và đường ống dầu khí đã liên hệ mật thiết Trung Quốc và Trung Á lại với nhau. Công ty cầu đường Trung Quốc (CRBC) cùng với những nhà thầu đã phụ trách việc xây dựng đường bộ cao tốc, đường sắt và hệ thống truyền tải điện ở khu vực này, trải đường ở một số địa hình hiểm trở nhất trên thế giới, thậm chí xây dựng những tuyến đường mới để vận chuyển sản phẩm của Trung Quốc đến Châu Âu, Trung Đông và Pakistan cũng như các cảng ở Iran. Trong khoảng thời gian 20 năm Trung Quốc và năm nước Trung Á thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1992 đến năm 2012, tổng kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và khu vực này đã tăng gấp 100 lần.[32]
Ở khu vực Trung Á, Trung cộng chủ trương kế hoạch đầu tư to lớn vào các dự án nhà nước và các cơ sở hạ tầng được cung cấp nguồn tài chính bằng tín dụng. Có học giả dự đoán nó có thể trở thành một loại cơ sở cho trật tự quốc tế mới, Trung Quốc sẽ phát huy tác dụng chủ đạo trong trật tự này. Từ ý nghĩa này mà nói, thì Trung Á là một nơi thí nghiệm cho tư tưởng mới của chính sách ngoại giao Trung Quốc.[33]
Hiện nay, Bắc Kinh có khuynh hướng ủng hộ những nhà độc tài tham nhũng ở khu vực này, và kế hoạch đầu tư không rõ ràng của nó được cho là chỉ có lợi cho một bộ phận nhỏ tinh anh. Báo cáo của “Nhóm nguy cơ quốc tế” chỉ ra: “Mỗi một chính quyền Trung Á đều yếu đuối, tham nhũng, và bị các vấn đề kinh tế xã hội làm cho rối ren.”[34] Hạ tầng cơ sở quy mô lớn mà Bắc Kinh thúc đẩy không chỉ dính dáng với những khoản nợ khổng lồ, mà còn liên quan đến những giấy phép và phê duyệt có thể mang lại món lợi, trong thể chế độc tài không thể tránh khỏi nuôi dưỡng cho tham nhũng.
Lấy Uzbekistan làm ví dụ, năm 1991 sau khi độc lập, nước này vẫn luôn do bí thư thứ nhất của Ủy ban Trung ương Đảng cộng sản Uzbekistan là Karimov nắm quyền tổng thống, mãi đến năm 2016 khi qua đời, thời gian cầm quyền kéo dài 1/4 thế kỷ. Năm 2005 cuộc trấn áp ở thành phố Andijan ở phía Đông đã gây ra hàng trăm người tử vong. Trung cộng lại tuyên bố bản thân là người ủng hộ kiên định cho Karimov, “Trước sau như một ủng hộ nỗ lực của Uzbekistan và các nước ở khu vực trong việc duy trì an ninh và ổn định của quốc gia và khu vực.”[35]
Kết cấu kinh tế yếu đuối của bản thân các nước Trung Á, thêm vào đó là dựa vào khoản nợ lớn từ Trung cộng để tiến hành xây dựng cơ sở, dẫn đến việc những nước này bị bẫy nợ bao vây. Turkmenistan đối diện với khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, tỷ lệ lạm phát hàng năm lên đến 300%, tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt lên 50%, hàng hoá thiếu thốn, đồng thời tham nhũng tràn lan. 70% thu nhập của chính phủ độc tài Trung Á này đến từ xuất khẩu khí thiên nhiên, mà hiện nay Bắc Kinh là người mua duy nhất khí thiên nhiên của họ.[36] Đồng thời Bắc Kinh cũng là chủ nợ lớn nhất trong số nợ kếch xù 9 tỷ USD của nước này (chiếm 30% GDP năm 2018).[37] Turkmenistan có lẽ không thể không giao các mỏ khí thiên nhiên cho Trung Quốc để bù nợ.[38] Không khoa trương khi nói rằng, mạch sống của kinh tế nước này đã bị Trung cộng khống chế trong tay.
Ở Tajikistan, vì vay nợ Trung cộng 300 triệu USD để xây dựng nhà máy điện mà khiến nước này không thể trả nợ, nước này đã phải giao quyền khai thác một mỏ vàng cho Trung cộng để trả nợ.
Nền kinh tế của Kyrgyzstan cũng tràn đầy nguy cơ. Xây dựng cơ bản quy mô lớn đã khiến Kyrgyzstan nợ Bắc Kinh một khoản lớn. Kyrgyzstan khả năng sẽ phải chuyển nhượng một bộ phận tài nguyên thiên nhiên của họ cho Trung cộng để trả nợ. Nước này còn hợp tác với Huawei và ZTE để xây dựng hạ tầng thông tin liên lạc số, tăng cường giám sát của chính phủ, điều này đồng thời cũng lưu lại cửa sau cho Trung cộng [giám sát nước này].[40]
Bắc Kinh lợi dụng khoảng trống quyền lực còn lại sau khi Liên Xô giải thể, để tiến vào lĩnh vực năng lượng của Kazakhstan. Toàn bộ nền kinh tế của Kazakhstan dựa vào sản xuất dầu thô, và bán đi đổi lấy đô-la Mỹ, rồi dùng những đồng đô-la này để mua sản phẩm Trung Quốc giá rẻ. Ngoài công nghiệp khai khoáng, cơ sở nền công nghiệp của nước này là mỏng yếu. Một lượng lớn sản phẩm giá rẻ Trung Quốc tràn vào, khiến cho nền công nghiệp đang có của Kazakhstan vốn đã không chịu nổi một kích nay triệt để suy sụp.[41]
Một động cơ khác mà Trung cộng khuếch trương tại khu vực Trung Á, đó là mượn điều này để tăng cường tấn công những nhân sĩ bất đồng chính kiến người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương. Chương trình tổ chức hợp tác Thượng Hải do Trung cộng dẫn đầu cho phép dẫn độ nghi phạm giữa các nước thành viên, các nước thành viên có thể phái đi nhân viên của mình đến các nước thành viên khác để tiến hành điều tra. Trung cộng mượn điều này để đưa hành động đàn áp người Duy Ngô Nhĩ mở rộng ra hải ngoại, xuyên quốc gia bắt giữ trở về những người Duy Ngô Nhĩ bất đồng chính kiến lưu vong ở hải ngoại.[42]
2.2.4 Dựng nên các quốc gia điểm tựa, không màng đạo đức cướp đoạt tài nguyên
Trong thực thi chiến lược vùng biên lớn của Trung cộng đã lựa chọn ưu tiên xây dựng “quốc gia điểm tựa (pivotal states) [để làm đòn bẩy], sau đó lấy “điểm” dẫn theo cả một “diện”, đạt được mục tiêu chiến lược của toàn bộ khu vực. Cái gọi là quốc gia điểm tựa, theo cách nói của các viện nghiên cứu của Trung cộng, là những nước có thực lực nhất định, Trung cộng có năng lực và tài nguyên để dẫn dắt hành vi của nước đó, về lợi ích chiến lược không tồn tại xung đột trực tiếp với Trung cộng, không có quan hệ lợi ích mật thiết với nước Mỹ. [43] Ngoài các nước Australia, Kazakhstan nói ở trên, những quốc gia điểm tựa như vậy còn có Iran ở Trung Đông, Myanmar ở Nam Á v.v.
Nước được Trung cộng đầu tư nhiều nhất ở Trung Đông là Iran. Iran là nước sản xuất dầu quan trọng ở Trung Đông, đồng thời về giá trị quan lại luôn phản đối phương Tây. Do vậy Iran tự nhiên trở thành đối tượng hợp tác chiến lược về kinh tế và quân sự của Trung cộng. Từ những năm 80 thế kỷ trước, Trung cộng đã bắt đầu giữ mối quan hệ qua lại về kinh tế và quân sự với Iran. Năm 1991, cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế phát hiện Trung cộng xuất khẩu Uranium sang Iran, và còn phát hiện từ 1990 Trung cộng và Iran đã ký hiệp định hạt nhân bí mật.[44] Năm 2002, dự án làm giàu Uranium của Iran bị phát hiện, những công ty dầu mỏ phương Tây lần lượt rút lui, điều này giúp Trung cộng ở lại Iran thừa cơ phát triển với quy mô lớn.[45] Kim ngạch thương mại song phương giữa Trung cộng và Iran từ năm 1992 đến 2001 tăng trưởng theo hàm số mũ, tăng gấp hơn một trăm lần trong 17 năm.[46] (về sau do áp lực chế tài quốc tế nên có chậm lại). Hiện nay bạn làm ăn lớn nhất của Iran vốn bị xã hội quốc tế cô lập là Trung cộng. Với sự giúp đỡ của Trung cộng, Iran đã phát triển tên lửa đạn đạo chiến thuật từ tầm ngắn đến tầm trung và tên lửa hành trình đối hạm, cũng như thuỷ lôi và tàu tấn công tốc độ cao. Trung cộng thậm chí còn giúp đỡ Iran bí mật xây dựng dự án vũ khí hoá học.[47]
Một quốc gia điểm tựa khác được Trung cộng coi trọng là láng giềng Nam Á Myanmar. Myanmar có đường bờ biển dài, có thể cung cấp con đường xuất khẩu có tính chiến lược đến Ấn Độ Dương. Trung cộng coi việc mở ra đường thông Trung Quốc-Myanmar là một trong những bước đi chiến lược để tránh rủi ro ở eo biển Malacca. [48] Thành tích nhân quyền tệ hại của chính phủ quân sự Myanmar vẫn luôn khiến cho nó bị xã hội quốc tế cô lập. Phong trào dân chủ năm 1988 ở Myanmar chấm dứt dưới sự trấn áp của quân đội. Năm sau, xe tăng Bắc Kinh cũng đại khai sát giới ở quảng trường Thiên An Môn. Hai chính phủ độc tài bị xã hội quốc tế đồng thanh khiển trách nên “thương cảm lẫn nhau”, từ đó bắt đầu qua lại mật thiết. Tháng 10 năm 1989, đại tướng Than Shwe của Myanmar thăm Trung Quốc, song phương đạt được thỏa thuận mua bán vũ khí 1,4 tỷ USD.[49] Những năm 90 thế kỷ trước hai bên lại có rất nhiều lần mua bán vũ khí, phía Trung Quốc bán cho Myanmar những trang bị gồm có chiến đấu cơ, tàu tuần dương, xe tăng và xe thiết giáp vận chuyển binh sĩ, pháo phòng không, tên lửa v.v..[50] Sự hỗ trợ về quân sự, chính trị và kinh tế của Trung cộng đã trở thành nguồn sống của chính phủ quân sự Myanmar vốn lay lắt hơi tàn.[51] Năm 2013, với đầu tư 5 tỷ đô-la, đường ống dầu khí Trung Quốc-Myanmar mệnh danh là thông đạo chiến lược nhập khẩu dầu khí lớn thứ 4 Trung Quốc được xây dựng, mặc dù bị người dân địa phương phản đối, nhưng với sự can dự và đàm phán của Trung cộng, đến năm 2017 đã đi vào vận hành.[52] Những khoản đầu tư quy mô lớn tương tự còn bao gồm thuỷ điện sông Mê-kông (hiện nay bị hoãn lại vì các nước bản địa phản đối), mỏ đồng Letpadaung. Năm 2017 tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước Trung Quốc – Myanmar đạt 13,54 tỷ đô-la. Trung cộng đang có kế hoạch xây dựng hành lang kinh tế Trung Quốc-Myanmar, trong đó bao gồm xây dựng một cảng nước sâu xuất khẩu ra Ấn Độ Dương mà phía Trung Quốc chiếm 70% cổ phần, [53] và đặc khu khu công nghiệp Kyaukpyu ở Myanmar.[54]
2.3 Chia để trị đối với Châu Âu, phân hoá đồng minh Âu-Mỹ
Trong chiến tranh lạnh, Châu Âu là trận địa tuyến đầu chạm trán giữa thế giới tự do và phe cộng sản, tổ chức NATO là đồng minh kiên định của Mỹ. Sau khi kết thúc chiến tranh lạnh, địa vị trên thế giới của Châu Âu về chính trị kinh tế giảm xuống rõ ràng. Vì để chia rẽ đồng minh Âu-Mỹ, ở Châu Âu, Trung cộng đã chọn sách lược nhập gia tuỳ tục, thâm nhập và khống chế dần từng bước, mưu đồ “chia để trị” đối với các nước Châu Âu. Những năm gần đây, sự bất đồng trên rất nhiều vấn đề trọng đại giữa Âu-Mỹ càng ngày càng hiện rõ, một trong những nguyên nhân quan trọng chính là do sách lược phân hoá và ăn mòn của Trung cộng.
Sau khủng hoảng tài chính năm 2008, nhắm vào điểm yếu là những nước yếu trong nội bộ Châu Âu cần gấp tư bản nước ngoài, Trung cộng đã thừa cơ xâm nhập vào, bơm lượng lớn tiền vào những nước này, đổi lấy sự thoả hiệp của họ về những vấn đề như luật pháp quốc tế và nhân quyền. Trung cộng dùng phương thức này để tạo ra và mở rộng rạn nứt trong nội bộ các nước liên minh Châu Âu, từ đó trục lợi. Những nước yếu bị Trung cộng nhắm đến gồm có Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hungary v.v..
Sau khi Hy Lạp xảy ra cuộc khủng hoảng nợ công, Trung cộng thừa cơ đầu tư lượng lớn vào Hy Lạp, dùng kim tiền để đổi lấy ảnh hưởng chính trị, và thông qua Hy Lạp phát huy ảnh hưởng đến Châu Âu. Trong vòng mấy năm, Trung cộng đã có được giấy phép kinh doanh 35 năm của các bến tàu container số 2 và số 3 của cảng Piraeus lớn nhất Hy Lạp, và tiếp quản trung tâm trung chuyển trọng yếu trong Piraeus. Tháng 5 năm 2017, Trung Quốc và Hy Lạp ký “kế hoạch hành động 30 năm”, bao gồm xây dựng mạng lưới đường sắt, cảng biển, sân bay, đầu tư vào mạng lưới điện cũng như các nhà máy phát điện.[55] Đầu tư của Trung cộng đã thu được báo đáp về chính trị. Sau năm 2016, là thành viên của EU, Hy Lạp nhiều lần phản đối những nghị quyết phê bình nhắm vào chính sách và nhân quyền của Trung cộng, khiến cho những tuyên bố này bị huỷ bỏ. Tháng 8 năm 2017, một bài bình luận của “Thời báo New York” nói: “Hy Lạp đã bắt đầu lao vào vòng tay của kẻ có nhiệt tình nhất với mình và theo đuổi dã tâm địa chính trị lớn nhất là Trung Quốc” [56]
Năm 2012, Trung cộng phát động khuôn khổ hợp tác với 16 nước khu vực Trung Âu-Đông Âu “Hợp tác 16+1”. Hungary là nước đầu tiên gia nhập cơ chế “Hợp tác 16+1”, cũng là nước Châu Âu đầu tiên ký với Trung Quốc hiệp định “Nhất đới nhất lộ”. Năm 2017, kim ngạch thương mại song phương Trung Quốc-Hungary đã vượt mức 10 tỷ đô-la. Cũng như Hy Lạp, Hungary cũng nhiều lần phản đối những phê bình của EU về tình hình nhân quyền của Trung cộng.[57] Tổng thống Czech thuê thương gia giàu có Trung Quốc làm cố vấn cho mình, cao giọng giữ khoảng cách với Đạt Lai Lạt Ma.[58]
Trong 16 nước trong khuôn khổ hợp tác này, thì 11 nước là quốc gia trong EU, 5 nước không thuộc EU. Trung cộng đề xuất mô hình hợp tác mới cho khu vực này với dụng tâm khác, ý đồ phân hoá EU là rõ ràng. Ngoài ra, trong 16 nước này, nước mà trước kia là XHCN chiếm tỷ lệ rất lớn, những quốc gia này có lịch sử thống trị của đảng cộng sản, về tư tưởng và tổ chức đều vẫn lưu lại rất nhiều vết tích của đảng cộng sản, dễ dàng ăn nhịp với Trung cộng.
Các nước nhỏ ở Châu Âu san sát, một nước đơn độc rất khó chống lại Trung cộng. Trung cộng lợi dụng điểm này, công phá từng nước một, khiến những nước này không dám phát biểu về tình hình nhân quyền và chính sách ngoại giao của Trung Quốc. Ví dụ điển hình nhất là Na Uy. Năm 2010 Uỷ ban giải Nobel ở Na Uy trao giải Nobel hoà bình cho nhân sĩ bất đồng chính kiến vẫn còn trong nhà tù. Trung cộng nhanh chóng có hành động trả thù nước này, thiết lập rất nhiều trở ngại cho việc xuất khẩu cá hồi của Na Uy sang Trung Quốc, ở các phương diện khác cũng có rất nhiều khó khăn. Sáu năm sau, quan hệ hai nước “bình thường hoá”, nhưng Na Uy bắt đầu giữ im lặng về phương diện nhân quyền của Trung Quốc.[59]
Các nước mạnh Tây Âu truyền thống cũng cảm nhận được sức ảnh hưởng không ngừng mở rộng của Trung cộng. Đầu tư trực tiếp của Trung cộng vào nước Đức đã bắt đầu tăng trưởng trên diện rộng. Năm 2016 và năm 2017, Trung Quốc đã là bạn thương mại lớn nhất của Đức. Năm 2016, có 56 công ty Đức bị các nhà đầu tư từ nội địa Trung Quốc và Hồng Kông mua lại, kim ngạch đầu tư đạt 11 tỷ đô-la. Loại mua sáp nhập này khiến công ty Trung Quốc có thể nhanh chóng tham gia thị trường hoặc có được kỹ thuật tiên tiến, thương hiệu và các tư sản khác của phương Tây.[60] Năm 2018, viện nghiên cứu Hoover Mỹ công bố báo cáo gọi đó là “Vũ khí hoá” Đầu tư của Trung cộng.[61] Thành phố công nghiệp phía Tây nước Đức Duisburg trở thành điểm trung chuyển Châu Âu của “nhất đới nhất lộ”. Mỗi tuần có chuyến xe lửa với 30 đoàn tàu chở đầy hàng hóa Trung Quốc đi đến thành phố này, từ đây lại vận chuyển đến các nước khác. Thị trưởng thành phố này nói, Duisburg là “Thành phố Trung Quốc của Đức”.[62]
Còn về nước Pháp, Trung cộng từ lâu vẫn luôn sử dụng “ngoại giao mua sắm”. Như vào năm 1999 người đứng đầu đảng Trung cộng là Giang Trạch Dân sang thăm đã tặng cho nước Pháp một hợp đồng mua bán lớn trị giá 15 tỷ Franc, mua gần 30 chiếc máy bay của công ty Airbus, do vậy đạt được sự ủng hộ của chính phủ Pháp về việc Trung cộng gia nhập tổ chức WTO. Pháp trở thành quốc gia phương Tây đầu tiên thiết lập “quan hệ bạn bè chiến lược toàn diện” sau cuộc thảm sát ở quảng trường Thiên An Môn của Trung cộng, tổng thống Pháp lúc bấy giờ là vị đầu tiên phản đối phê bình Trung Quốc tại hội nghị nhân quyền Geneva, là người đầu tiên chủ trương giải trừ lệnh cấm vận vũ khí của EU đối với Trung Quốc, đứng đầu một chính phủ phương Tây mà ca ngợi Trung cộng.[63] Ngoài ra, từ rất sớm Trung cộng đã bắt đầu “Tuần hoạt động văn hoá Trung Quốc” tại Pháp, quy mô rất lớn, thực chất là mượn danh nghĩa văn hoá để chào hàng hình thái ý thức của Trung cộng.[64]
Cường quốc Châu Âu truyền thống, đồng minh quan trọng của Mỹ – nước Anh là một trong những trọng điểm dòm ngó của Trung cộng. Ngày 15 tháng 9 năm 2016, chính phủ Anh chính thức phê chuẩn dự án điện hạt nhân tổ máy Hinkley Point C của liên doanh Trung Quốc và Pháp. Nhà máy điện Hinkley Point C, là nhà máy điện hạt nhân xây dựng ở quận Somerset phía Tây Nam nước Anh. Công suất lắp đặt là 3200 MW. Dự án này bị các chuyên gia trong nước bao gồm các kỹ sư, các nhà vật lý, nhà bảo vệ môi trường, chuyên gia vấn đề Trung Quốc, nhà phân tích thương nghiệp phê bình nghiêm khắc, nhất là về nguy cơ ẩn tàng cực lớn đối với an ninh quốc gia Anh. Ông Nick Timothy, cựu tham mưu trưởng của bà Teresa May chỉ ra, chuyên gia an ninh “lo lắng người Trung Quốc có thể lợi dụng vai trò của họ để xây dựng những nhược điểm trong hệ thống máy tính, điều này sẽ cho phép họ có thể tuỳ ý tắt hệ thống sản xuất năng lượng của nước Anh.”[65] Báo “Guardian” của nước Anh chỉ ra rằng cái “Nhà máy điện đắt nhất thế giới này” là một “giao dịch đáng sợ”.[66]
Với các nước khác trên thế giới cũng vậy, các hoạt động mở rộng ảnh hưởng của chính phủ Trung cộng tại châu Âu là không kẽ hở nào không chen vào, đa dạng các thể loại. Chẳng hạn mua lại những công ty khoa học kỹ thuật cao Châu Âu, khống chế cổ phần các cảng biển quan trọng, mua chuộc các nhân vật chính trị quan trọng đã nghỉ hưu thay mặt và ủng hộ cho Trung cộng, thâm nhập vào các trường đại học, viện chiến lược, viện nghiên cứu, lung lạc các nhà Hán học để hát bài ca ngợi Trung cộng v.v., không phải là ít.[67] Công cụ tuyên truyền đối ngoại của chính phủ Trung cộng là “Nhật báo Trung Quốc” (China Daily) mỗi tháng lại chèn vào một trang trên tờ báo lớn có lịch sử lâu đời của nước Anh là The Daily Telegraph, đăng tải những bài viết tô son trát phấn cho chính quyền Trung cộng. Vì vậy Trung cộng bỏ ra mỗi năm đến 750 nghìn bảng Anh cho tờ “The Daily Telegraph”.[68]
Hoạt động của Trung cộng tại Châu Âu cũng khởi lên mối e ngại cực lớn từ các nhà nghiên cứu. Năm 2018 viện chiến lược nổi tiếng Châu Âu là Viện nghiên cứu chính sách công toàn cầu (GPPI) công bố báo cáo nghiên cứu, phơi bày hoạt động thâm nhập của Trung cộng tại Châu Âu. Báo cáo chỉ ra, Trung cộng có công cụ gây ảnh hưởng chính trị toàn diện và linh hoạt, chủ yếu bao gồm 3 phương diện: tinh anh chính trị và kinh tế, dư luận truyền thông và công chúng, xã hội công dân và giới học thuật. Trung cộng hạn chế nghiêm ngặt tư tưởng, cơ cấu và tiền bạc nước ngoài tiến vào, còn cánh cửa Châu Âu lại mở toang, Trung cộng lại lợi dụng điểm này để thực hiện mưu đồ chính trị của mình. Báo cáo chỉ ra, hậu quả của loại quan hệ chính trị bất đối xứng này đã hiển hiện ở Châu Âu. Các nước Châu Âu bắt đầu điều chỉnh chính sách để vừa lòng Trung cộng. Các nước EU và một số nước lân cận thậm chí còn không tiếc làm tổn hại lợi ích quốc gia, chấp nhận lập luận và lập trường của Trung cộng. Sự thống nhất của EU chịu sự uy hiếp của sách lược “chia để trị” của Trung cộng, nhất là ở phương diện giá trị tự do và bảo vệ nhân quyền. Còn một số nhân sĩ trong nội bộ EU hoặc là để có được kinh phí từ phía Trung cộng, hoặc là vì để có được sự tán đồng của trên phạm vi toàn cầu, cũng tự nguyện phối hợp với Trung cộng, tuyên dương giá trị quan của nó, duy hộ lợi ích của Trung cộng.[69]
Ngoài việc thâm nhập về chính trị, kinh tế và văn hoá, Trung cộng còn tiến hành các hoạt động gián điệp ở Châu Âu. Ngày 22 tháng 10 năm 2018, “Báo Figaro” của Pháp lấy tổng tiêu đề là “Báo Figaro phơi bày kế hoạch gián điệp của Trung Quốc đối với nước Pháp”, thông qua chuỗi các bài báo chuyên đề độc quyền, đã tiết lộ các cách thức gián điệp của Trung cộng ở nước Pháp. Vì để thâm nhập vào lĩnh vực chiến lược, kinh tế chính trị nước Pháp, Trung cộng thông qua các mạng xã hội nghề nghiệp – đặc biệt là LinkedIn – để chiêu mộ người Pháp, cung cấp tình báo cho nó, tình hình vô cùng nghiêm trọng. Bài báo nói, những vụ án chân thực này chỉ là phần nổi của tảng băng về hoạt động gián điệp mà Trung cộng đang vận hành ở nước Pháp, mục đích của Trung cộng là đánh cắp tài liệu nhạy cảm về nội bộ quốc gia và tài sản kinh tế của Pháp trên quy mô lớn[70]. Hoạt động gián điệp tương tự ở nước Đức cũng đã xuất hiện.[71]
2.4 Biến châu Phi thành thuộc địa– xuất khẩu “Mô hình Trung Quốc”
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các quốc gia Châu Phi lần lượt từ nước thuộc địa trở thành độc lập. Cùng với việc phương Tây chuyển dịch kỹ thuật và vốn sang Trung Quốc, Châu Phi bắt đầu mất đi sự quan tâm từ các nước phương Tây. Mà đồng thời với việc Trung cộng có được tiếp máu từ phương Tây mà trở nên lớn mạnh, thì quá trình ăn mòn Châu Phi lại phát triển dần từng bước: Thế lực Trung cộng bắt đầu thay thế bố cục tại Châu Phi của những mẫu quốc phương Tây ban đầu, rồi thâm nhập đến các tầng diện chính trị kinh tế và đời sống của Châu Phi. Một mặt Trung cộng dùng danh nghĩa quốc gia đang phát triển để lôi kéo các nước Châu Phi, làm ra mặt trận thống nhất, đối kháng với những nước tự do như Mỹ tại Liên Hợp Quốc, một mặt khác lại không ngừng thông qua các thủ đoạn như mua chuộc kinh tế và viện trợ quân sự để thao túng chính phủ và phe cánh phản đối ở Châu Phi, chi phối sự vận hành của các nước Châu Phi, đồng thời xuất khẩu vào Châu Phi mô thức và giá trị quan của Trung cộng.
Trung cộng khống chế ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc trong khoảng từ năm 2001 đến năm 2010 cung cấp cho các nước Châu Phi khoản vay 62,7 tỷ đô-la. Lãi suất của những khoản vay này rất thấp, nhìn từ bề mặt thì không kèm theo bất kể điều kiện chính trị nào, hơn nữa rất không tính đến nguy cơ đầu tư, nhưng bởi vì rất nhiều vật thế chấp cho khoản vay là tài nguyên thiên nhiên, do vậy Trung cộng có được quyền khai thác của lượng lớn tài nguyên thiên nhiên. Năm 2003, Ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc cấp cho Angola khoản vay được đảm bảo bởi dầu mỏ, được gọi là “Mô hình Angola”. Thế là xuất hiện tình cảnh như thế này ở Châu Phi: “Người Trung Quốc khai thác dầu mỏ ở Châu Phi, thông qua đường ống dẫn dầu và cảng biển do Trung Quốc chế tạo, đưa đến các thuyền chở dầu Trung Quốc vận chuyển về Trung Quốc. Người Trung Quốc (Trung cộng) trang bị vũ trang cho chính phủ phạm tội ác chống lại nhân loại, lại còn bảo hộ cho cái chính phủ này có chỗ đứng ở Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc.”[72]
Sau khi Trung cộng càng ngày càng tham dự vào lĩnh vực kinh tế của Châu Phi, năm 2016 Trung Quốc đã trở thành bạn hàng giao dịch lớn nhất và nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất của Châu Phi.[73] Mô thức kinh doanh của Trung cộng tại Châu Phi có rất nhiều tệ nạn bị người ta phê bình: tiền công thấp, điều kiện lao động tệ hại, chất lượng sản phẩm kém, công trình đậu phụ, ô nhiễm môi trường, và những hành vi hủ bại như hối lộ các quan chức nước sở tại. Khi Trung Quốc bắt đầu hoạt động khai thác ở Châu Phi, thông thường bị dân chúng sở tại biểu tình kháng nghị.
Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2007, cựu tổng thống Zambia, ông Michael Sata từng nói, “Chúng tôi muốn người Trung Quốc đi chỗ khác, để những người thực dân trước kia quay lại, mặc dù họ cũng từng lợi dụng tài nguyên của chúng ta, nhưng chí ít họ sẽ chăm lo chúng ta rất tốt, họ xây dựng trường học, dạy ngôn ngữ cho chúng ta, còn mang văn minh nước Anh đến cho chúng ta. Chủ nghĩa tư bản phương Tây còn có bộ mặt của loài người, còn người Trung Quốc chỉ có bóc lột chúng ta.”[74] Ảnh hưởng của Trung Quốc tại Zambia đã có thể thấy ở mọi nơi, từ việc ngẩng đầu lên là có thể thấy bảng quảng cáo của ngân hàng Trung Quốc, đến việc người Trung Quốc có mặt ở hầu như mọi nơi. Điều này khiến cho ông Sata không thể tránh được đành phải giao thiệp với Trung cộng, sau khi có được quyền lực rồi lập tức hội kiến với đại sứ Trung Quốc, và năm 2013 đến thăm Trung Quốc.
Sudan là một trong những thành luỹ sớm nhất mà Trung cộng dựng lên ở Châu Phi, 20 năm qua đầu tư của Trung cộng vào Sudan đã phát triển theo hàm số mũ. Ngoài tài nguyên dầu mỏ phong phú, địa vị chiến lược của Sudan tại Biển Đỏ cũng vô cùng quan trọng đối với Trung cộng.[75] Những năm 90 thế kỷ trước, khi xã hội quốc tế cô lập chính quyền Bashir ở Sudan vốn ủng hộ chủ nghĩa khủng bố và chủ nghĩa hồi giáo cực đoan, Trung cộng đã thừa cơ lẻn vào, nhanh chóng trở thành bạn làm ăn lớn nhất của Sudan, đã nhập khẩu tuyệt đại bộ phận lượng dầu mỏ xuất khẩu của Sudan.[76] Đầu tư của Trung cộng đã giúp chế độ cực quyền Bashir sống sót trước bao vây từ phương Tây thậm chí còn phát triển, đồng thời quân đội Trung cộng còn xuất vũ khí sang Sudan, gián tiếp hỗ trợ cho cuộc diệt chủng người Darfur của Sudan vào đầu thế kỷ này. Ở xã hội quốc tế Trung cộng đồng thời đóng vai diễn hai mặt. Một mặt phái đi lực lượng bảo vệ hoà bình cho Liên Hợp Quốc, để “điều đình” xung đột Sudan; một mặt khác lại công khai mời tổng thống Sudan đang bị toà án hình sự quốc tế truy nã với tội chống lại nhân loại sang thăm, hơn nữa còn nói, cho dù thế giới có thay đổi bao nhiêu, cho dù cục diện nội bộ Sudan có thế nào, thì Trung cộng vẫn vĩnh viễn là “bạn” của Sudan.[77]
Việc Trung cộng lôi kéo các nước thế giới thứ ba có thể nói là đem hết sức mình. Diễn đàn hợp tác Trung Quốc – Châu Phi thành lập vào năm 2000 ở Bắc Kinh, sau đó mấy lần diễn đàn Trung-Phi tổ chức vào những năm mấu chốt, người lãnh đạo Trung cộng đều “vung tiền” cho Châu Phi. Ở đại hội thành lập năm 2000, Giang Trạch Dân tuyên bố miễn trừ khoản nợ trị giá 10 tỷ NTD của các nước nghèo Châu Phi; năm 2006, Bắc Kinh lại là nước chủ nhà hội nghị thượng đỉnh, Trung cộng không những tuyên bố miễn trừ tất cả các khoản nợ có trước cuối năm 2005 của các nước nghèo Châu Phi có bang giao [với Trung Cộng], [78] mà còn gửi tặng quỹ, tín dụng, học bổng cũng như các loại dự án viện trợ khác trị giá hơn chục tỷ USD. Năm 2015 tại Johannesburg Nam Phi, Trung cộng tuyên bố sẽ cấp quỹ trị giá 60 tỷ đô-la, cùng các nước Châu Phi hợp sức thúc đẩy “10 kế hoạch hợp tác lớn”.[79] Ngày 28 tháng 8 năm 2018, phó bộ trưởng Bộ thương mại Trung cộng cho hay, “Đối với 33 nước không phát triển nhất Châu Phi, 97% sản phẩm xuất sang Trung Quốc sẽ được miễn thuế.”[80] Ngày 3 tháng 9 năm 2018, tại hội nghị thượng đỉnh Bắc Kinh của diễn đàn hợp tác Trung-Phi, Trung cộng hứa sẽ tiếp tục cung cấp viện trợ không hoàn lại, nợ không lãi suất, quỹ chuyên biệt và các khoản đầu tư trị giá 60 tỷ đô-la cho Châu Phi, đồng thời còn hứa đối với các nước nghèo Châu Phi “có quan hệ ngoại giao với Trung cộng”, sẽ miễn trừ các khoản nợ chính phủ chưa trả đáo hạn vào cuối năm 2018.[81]
Trải qua mấy chục năm nỗ lực công phu, Trung cộng dùng thương mại mậu dịch để nắm chắc mạch sống kinh tế của Châu Phi, dùng lợi ích kinh tế để mua chuộc một lượng lớn chính phủ Châu Phi, để họ nghe lời Trung cộng. Dư luận thế giới đã chú ý đến việc Trung cộng mưu đồ chinh phục Châu Phi, và biến Châu Phi thành vũ đài lớn để quảng bá tuyên truyền mô thức của Trung cộng. Học giả trong thể chế Trung cộng tuyên bố: “Trung Quốc đi 40 năm đến hôm nay đã chứng minh, không cần đi theo con đường của phương Tây vẫn có thể thành công, lịch sử vẫn chưa chốt lại. Xung kích này đối với Châu Phi là không cách nào tưởng tượng.”[82]
Cựu thủ tướng Ethiopia – ông Meles phỏng theo Trung Quốc chế định ra kế hoạch 5 năm, hình thức tổ chức của đảng cầm quyền – Mặt trận Dân chủ Cách mạng Nhân dân Ethiopia vô cùng tương tự với Đảng cộng sản Trung Quốc. Một vị nhân sĩ bộ ngoại giao Trung Quốc giấu tên giới thiệu, đại bộ phận lãnh đạo cấp cao của đảng cầm quyền- Mặt trận Dân chủ Cách mạng Nhân dân Ethiopia đều từng đến Trung Quốc học tập và được huấn luyện, rất nhiều con cái của các nhân vật trọng yếu cũng được gửi sang Trung Quốc du học. Mà các quan chức cấp bộ trưởng của Ethiopia hầu như người nào cũng có một cuốn “Mao tuyển”.[83] Tháng 3 năm 2013 ở hội nghị thượng đỉnh các nước BRICS, thủ tướng Ethiopia biểu đạt thái độ, rằng Ethiopia coi Trung Quốc như là bạn hợp tác và hình mẫu phát triển. Hiện nay, Ethiopia bị coi là “Trung Quốc mới” ở Châu Phi, việc kiểm duyệt Internet, phong toả mạng, chính trị chuyên chế, truyền thông bị kiểm soát v.v. là giống hệt như đúc với Trung Quốc.[84]
Ethiopia không phải là ví dụ duy nhất. Năm 2018, Diễn đàn lãnh đạo trẻ Trung-Phi lần thứ 4 và Diễn đàn chính đảng Trung Quốc-Mỹ Latinh do Bộ Liên lạc Đối ngoại Trung ương Trung cộng tổ chức khai mạc ở Thâm Quyến Quảng Đông. Mục tiêu tập huấn là các lãnh đạo và quan chức chính phủ. Chủ nhiệm hạng mục Trung Quốc của Viện Chiến lược Washington – Trung tâm Stimson, bà Yun Sun (Tôn Vận) cho biết, kiểu tập huấn chính trị này là xuất khẩu “mô thức Trung Quốc” sang các nước đang phát triển. Bà nói: “Kiểu tập huấn chính trị này của họ có 3 mục đích. Thứ nhất, là tính hợp pháp của Trung cộng, mưu đồ nói cho thế giới rằng Trung cộng đã quản lý thành công quốc gia này như thế nào cũng như kinh nghiệm thành công ra sao và có thể được sao chép sang các quốc gia đang phát triển khác như thế nào. Mục đích thứ hai là quảng bá cho kinh nghiệm phát triển của Trung Quốc, chính là kinh nghiệm của cái gọi là ‘giao lưu trị quốc’.Mặc dù chưa xuất khẩu ‘cách mạng’, nhưng xác thực đã xuất khẩu phương thức hình thái ý thức của Trung Quốc. Thứ ba là tăng cường giao lưu song phương”[85] Cũng có nghĩa là, Trung cộng coi thể chế của nó như là khuôn mẫu để xuất khẩu sang Châu Phi.
2.5 Tiến quân vào Mỹ Latinh – Đào góc tường sân sau nước Mỹ
Châu Mỹ Latinh (CMLT) về mặt địa lý gần sát nước Mỹ, trong lịch sử vẫn luôn là phạm vi thế lực của nước Mỹ. Mặc dù vào giữa thế kỷ 20 khi CNCS đang tràn lan, CMLT đã xuất hiện không ít chính quyền XHCN, nhưng ảnh hưởng từ bên ngoài vẫn không đủ để tạo thành uy hiếp đối với nước Mỹ.
Sau khi Liên Xô giải thể, Trung cộng bắt đầu dòm ngó CMLT, lấy cờ hiệu “hợp tác Nam Nam”, tiến hành thâm nhập toàn diện về các phương diện kinh tế thương mại, quân sự, ngoại giao, văn hoá v.v.. Rất nhiều nước CMLT như Venezuela, Cuba, Ecuador, và Bolivia về chính trị có lập trường chống Mỹ mạnh mẽ, Trung cộng lợi dụng đầy đủ điểm này, vượt đại dương vươn tay tới nơi này, khích bác quan hệ giữa họ và nước Mỹ, thúc đẩy khuynh hướng chống Mỹ ở những nước này. Điều này một mặt vừa có thể làm suy yếu ưu thế của Mỹ tại khu vực này, một mặt khác lại có thể tự do ra vào sân sau của nước Mỹ, nâng đỡ những chính quyền XHCN ở Mỹ Latinh, để trường kỳ đối kháng lại Mỹ, chuẩn bị cho dã tâm toàn cầu của Trung cộng. Không hề quá khi nói rằng, sự thâm nhập và ảnh hưởng của Trung cộng đối với CMLT đã vượt rất xa Liên Xô năm đó.
Đầu tiên Trung cộng thông qua ngoại thương và đầu tư để mở rộng ảnh hưởng tại CMLT. Căn cứ theo báo cáo của một viện chiến lược của Mỹ – viện nghiên cứu Brookings, năm 2000 thương mại của Trung Quốc với MLT chỉ có 12 tỷ đô-la, đến năm 2013 đã đạt 260 tỷ đô-la, tăng trưởng hơn 20 lần. Trước năm 2008, các khoản hứa cho vay nợ của Trung Quốc không vượt quá 1 tỷ đô-la, mà vào năm 2010, đã đạt 37 tỷ. Trung Quốc cam kết từ năm 2005 đến năm 2016 cung cấp cho MLT khoản nợ 141 tỷ đô-la. Khoản các nước nợ Trung Quốc hiện nay đã vượt quá tổng nợ từ Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng phát triển Liên Mỹ (Inter-American Develop Bank). Đồng thời với đó, Trung cộng cam kết đến năm 2025 sẽ cung cấp đầu tư trực tiếp trị giá 250 tỷ đô-la cho MLT, thương mại song phương giữa Trung Quốc và MLT sẽ đạt mức 500 tỷ đô-la. CMLT là điểm đến lớn thứ hai hiện nay của Trung Quốc, chỉ đứng sau Châu Á.
Đối với rất nhiều các nước Nam Mỹ, Trung Quốc đã trở thành nước xuất khẩu quan trọng nhất của họ. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất của 3 nền kinh tế lớn nhất CMLT – Brazil, Chile và Peru, là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Argentina, Costa Rica và Cuba. Từ xây dựng đường bộ ở Ecuador, đến dự án cảng biển ở Panama, rồi đến tuyến cáp quang trực tiếp giữa Chile và Trung Quốc, ảnh hưởng của Trung Quốc ở toàn bộ khu vực MLT đã rất rõ ràng.[86]
Trung cộng vẫn luôn dốc sức vào việc biến MLT trở thành căn cứ tài nguyên của nó, chẳng hạn công ty Baosteel có đầu tư khổng lồ ở Brazil, Shougang thì khống chế mỏ sắt ở Peru. Trung cộng còn tỏ ra vô cùng hứng thú với mỏ dầu ở Ecuador, nhiên liệu và mỏ vàng ở Venezuela.
Trung cộng đầu tư lượng lớn vào cơ sở hạ tầng của MLT. Tại Argentina, Trung cộng cam kết đầu tư 25 triệu đô-la vào cảng biển vận chuyển lương thực, đầu tư 250 triệu đô-la vào đường bộ nối giữa Argentina và Chile.[87]
Về quân sự, sự thâm nhập của Trung cộng đối với MLT đang mở rộng và đi sâu từng bước. Nhà nghiên cứu của Nhóm Kinh tế và An ninh Trung Mỹ – ông Jordan Wilson phát hiện, từ trước năm 2000 Trung cộng bán vũ khí cấp thấp cho MLT, phát hiện rằng sau này bán vũ khí cấp cao, đến năm 2010 đạt kim ngạch mua bán 100 triệu đô-la. Nhất là sau năm 2004, lượng bán vũ khí cho MLT tăng mạnh. Mà đối tượng của những cuộc mua bán này đều là những chính quyền có khuynh hướng chống lại Mỹ, như Venezuela. Giai đoạn này đồng thời còn kèm theo việc hợp tác trên phương diện huấn luyện quân sự. Năm 2015 tại hội nghị thượng đỉnh song phương Trung Quốc-Argentina tổ chức tại Bắc Kinh, nội dung của hiệp định này nếu như được thực thi, thì hợp tác quân sự của hai nước sẽ đạt đến một giai đoạn mới. Điều này bao gồm hợp tác sản xuất sản phẩm cao cấp tiên tiến, hỗ trợ Trung cộng xây dựng ở trong lãnh thổ của Argentina trạm điều khiển đo đạc và theo dõi không gian đầu tiên ở Nam bán cầu, và triển khai chiến đấu cơ do Trung Quốc chế tạo trong không quân Argentina, tổng kim ngạch đạt 500 triệu ~ 1 tỷ, vượt qua tổng giá trị mua bán vũ khí 130 triệu của Trung cộng với MLT vào năm 2014. Liên hệ giữa Trung cộng và MLT về ngoại giao, kinh tế, văn hoá và quân sự nhanh chóng phát triển. Sách trắng quốc phòng năm 2015 của Trung cộng yêu cầu quân đội Trung cộng tích cực tham gia hợp tác an ninh khu vực và toàn cầu, để bảo đảm hữu hiệu lợi ích của Trung cộng ở hải ngoại.[88]
Về ngoại giao, do Trung cộng lôi kéo và uy hiếp, một số quốc gia hoặc khu vực có bang giao với Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) như Panama, Dominica và El Salvador, đã lựa chọn cắt đứt quan hệ ngoại giao với Trung Hoa Dân Quốc, rồi lao vào vòng tay của Trung cộng. Tháng 6 năm 2017 Panama tuyên bố thiết lập ngoại giao với Trung cộng, chấm dứt quan hệ ngoại giao hơn 1 thế kỷ với Trung Hoa Dân Quốc. Ba năm trước Trung cộng tích cực lên kế hoạch đầu tư vào hạ tầng cơ sở Panama như cảng biển, đường sắt, đường bộ, kim ngạch đầu tư đạt 760 tỷ Đài tệ.[89] Trung cộng đã có được quyền khống chế hai đầu kênh đào Panama vốn có ý nghĩa chiến lược quan trọng trên toàn cầu, có khả năng ảnh hưởng đến sân sau của nước Mỹ. Trung cộng còn đầu tư gần 30 tỷ đô-la vào cảng United của El Salvador. Trên tờ “Báo hôm nay” (Newspaper of Today), đại sứ Mỹ tại El Salvador đã cảnh tỉnh, đầu tư của Trung cộng vào cảng United là có mục đích quân sự, và mưu đồ mở rộng ảnh hưởng tại vùng này, ắt phải hết sức lưu ý.[90]
Về phương diện văn hoá, Trung cộng đã thiết lập 39 viện Khổng Tử ở MLT và khu vực Caribe, thiết lập 11 lớp học Khổng Tử, học viên vượt quá 50 nghìn người.[91] Mà viện Khổng Tử được coi là cơ cấu gián điệp của Trung cộng, lấy danh nghĩa văn hoá truyền thống Trung Quốc để xuất khẩu văn hoá đảng và hình thái ý thức của Trung cộng, tẩy não thế giới.
Sự thâm nhập rộng khắp của Trung cộng ở MLT, đối với nước Mỹ là một sự uy hiếp nghiêm trọng. Trung cộng có thể lợi dụng sự ỷ lại của những quốc gia này vào thị trường, đầu tư và quân sự của Trung Quốc để khống chế chính sách của những quốc gia này, kéo họ vào trong phạm vi thế lực của mình, đối kháng lại nước Mỹ. Những kênh đào, cảng biển, đường sắt cũng như hạ tầng thông tin mà nó xây dựng, tương lai đều sẽ trở thành công cụ quan trọng để Trung cộng mở rộng, thiết lập bá quyền toàn cầu.
2.6 Dã tâm quân sự của Trung cộng
Năm 2018 tại triển lãm hàng không Chu Hải, chiến đấu cơ không người lái Cầu Vồng thế hệ 7 (CH-7) khiến các chuyên gia quân sự chú ý. Chiến đấu cơ dòng Cầu Vồng đại biểu cho ưu thế của kẻ đi sau về chiến đấu cơ không người lái của Trung cộng. Một lượng lớn chiến đấu cơ không người lái Cầu Vồng thế hệ 4 (CH-4) đã chiếm lĩnh thị trường vũ khí của một lượng lớn quốc gia từ Jordan, Iraq đến Turkmenistan, Pakistan, bởi vì những quốc gia này bị giới hạn bởi cấm vận vũ khí của phương Tây nên không cách nào mua được chiến đấu cơ không người lái từ Mỹ;[92] Thế hệ mới nhất Cầu Vồng 7 này có cấu hình ở một số phương diện đã đuổi kịp dòng X-47B tiên tiến nhất của Mỹ. Giới quan sát chú ý thấy rằng, trong khi còn chưa bay thử, thế hệ mới nhất Cầu Vồng 7 đã vội xuất hiện ở triển lãm hàng không Chu Hải [93]. Trong cuộc triển lãm, phân đoạn tác chiến mô phỏng hệ thống thông tin trên không được triển hiện nổi bật, kẻ địch giả tưởng được mô phỏng là Mỹ.[94] Những điều này đều biểu lộ rõ ràng dã tâm tranh bá của Trung cộng với nước Mỹ.
Những năm gần đây, thuận theo sự phát triển quân lực của Trung cộng, dã tâm của nó cũng càng ngày càng bành trướng. Từ sớm năm 2009 đã xảy ra việc tàu do thám USS Impeccable của Hải quân Mỹ khi tiến hành nhiệm vụ thăm dò ở trên Biển Đông đã bị tàu của Trung cộng theo đuôi và quấy nhiễu;[95] sau đó ở vùng biển quốc tế của Hoàng Hải cũng xảy ra sự kiện tương tự, tàu thăm dò USNS Victorious của Hải quân Mỹ bị tàu của Trung cộng quấy nhiễu, dưới điều kiện sương mù dày đặc, tàu của Trung cộng nhiều lần áp sát thậm chí gần đến mức hai bên chỉ còn cách nhau 30 yard (27,4 mét), khiến cho USNS Victorious đành phải dừng hành trình ban đầu để tránh va chạm.[96] Ví dụ gần nhất xảy ra vào tháng 9 năm 2018. Tàu khu trục USS Decatur của Mỹ trên Biển Đông bị tàu hải giám của Trung cộng tiến sát, tàu quân sự của Trung cộng băng qua trước mặt từ chỗ cách tàu của Mỹ chừng 45 yard, tàu Decatur buộc phải tránh né một cách rất khéo léo mới tránh khỏi va chạm.[97]
Sự thực là, dã tâm quân sự của Trung cộng có mưu tính lâu dài. Tư tưởng chiến lược của quân đội Trung cộng là từ việc trở thành cường quyền trên đất liền đồng thời đi đến tranh bá trên biển, cuối cùng hình thành bá quyền trên cả biển và đất liền. Năm 1980, Trung cộng đề ra một cách rõ ràng rằng “phòng ngự tích cực” là phương châm chiến lược, để mắt vào chiến lược phòng ngự quốc gia quy mô lớn, vẫn coi quân đội Liên Xô là đối tượng tác chiến chủ yếu. Năm 2013, Trung cộng đề ra phòng vệ tuyến đầu, đẩy tuyến đầu ra ngoài biên giới Trung Quốc, mở rộng ra bên ngoài, bắt đầu đề xuất lý luận chiến lược về tiến công chủ động, đề ra rằng “coi tiến công chiến lược là loại hình tác chiến quan trọng của phòng ngự tích cực” [98] Năm 2015, nhà lý luận quân sự của Trung cộng, tác giả cuốn sách “Chiến tranh không giới hạn” đề ra, “’Nhất đới nhất lộ’ yêu cầu lục quân có năng lực viễn chinh.” “Cho rằng lục quân Trung Quốc ắt phải bay lên, ắt phải thực hiện hàng không hoá lục quân, điều này có nghĩa là một cuộc cách mạng của toàn bộ lục quân Trung Quốc.” “’Nhất đới nhất lộ’ chính là sức kéo cực lớn cho lợi ích quốc gia và cho nhu cầu đối với việc cải cách quân đội Trung Quốc ” [99] Điều này cho thấy tư tưởng thông qua biện pháp quân sự để trở thành cường quyền trên lục địa của Trung cộng.
Báo cáo bộ quốc phòng Mỹ năm 2018 chỉ ra: Sự quan tâm của Trung Cộng đối với lợi ích ở hải ngoại, đã thúc đẩy Trung cộng mở rộng quân đội hướng ra ngoài biên giới và láng giềng, trọng tâm của hải quân Trung cộng từ “phòng ngự khu vực biển gần” bắt đầu chuyển sang hỗn hợp của “phòng ngự khu vực biển gần” và “bảo vệ vùng biển quốc tế”. Sách lược quân sự và cải cách quân đội của Trung cộng, tâm thái phản ánh ra là từ bỏ chiến lược lấy Đại lục làm trung tâm trong lịch sử. Tư tưởng chiến lược “phòng ngự tuyến đầu” của nó là chuyển dịch những xung đột có thể có ra ngoài lãnh thổ Trung Quốc, cho thấy sự mường tượng của quân đội Trung cộng về việc vai trò toàn cầu ngày càng tăng cường. [100] Mục tiêu của Trung cộng là đầu tiên đột phá chuỗi đảo thứ nhất (bắt đầu từ quần đảo Kuril ở phía Bắc, xuống phía Nam qua Đài Loan, đến đảo Borneo, bao gồm hải vực Tây Thái Bình Dương: Hoàng Hải, Biển Hoa Đông, và Biển Đông), đi ra vùng biển quốc tế Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, cuối cùng đi ra vùng hải dương toàn cầu.
Sự bành trướng của Trung cộng ở Biển Đông chính là vì để đột phá phong toả của chuỗi đảo thứ nhất. Ở Biển Đông, Trung cộng “lấp biển tạo đảo” và “quân sự hoá đảo đá ngầm”, trên đảo nhỏ thì trang bị sân bay, máy bay và tên lửa. Hiện nay tại 3 đảo đá ngầm có ý nghĩa chiến lược ở Biển Đông là Đá Chữ thập (Fiery Cross Reef), Đá Xu Bi (Subi Reef) và Đá Vành Khăn (Mischief Reef) đã bố trí tên lửa hành trình đối hạm và tên lửa đất đối không và sân bay, về khách quan đã hình thành hàng không mẫu hạm trên bờ. Hàng không mẫu hạm của Trung cộng cũng đã hình thành sức chiến đấu, về tầng diện chiến lược cho thấy Hải quân Trung cộng có thể đột phá “chuỗi đảo thứ nhất”, và bắt đầu có năng lực tác chiến trên vùng biển xa.
Cựu cố vấn chiến lược cấp cao của Nhà Trắng ông Steve Bannon từng nhiều lần biểu đạt mối lo như thế này, tức là về vấn đề Biển Đông, trong vòng 10 năm tới, Trung Mỹ sẽ nổ ra một cuộc chiến tranh.[101] Cựu thượng tá quân đội Mỹ, nhà bình luận quân sự – ông Selin cho rằng, “Hiện nay Trung cộng đang cố gắng thông qua các nước cường quyền tương tự ở Bắc Ấn Độ Dương kết thành đồng minh, mở rộng ảnh hưởng quốc tế của nó ra ngoài Biển Đông. Nếu như được cho phép hoàn thành liên kết đồng minh này, thì Trung cộng có thể ở địa vị không còn điểm yếu, có quyền lực chi phối một nửa GDP của toàn cầu”.[102]
Vấn đề Biển Đông không phải chỉ là vấn đề tranh chấp lãnh hải mang tính khu vực, nó có ý nghĩa chiếc lược mang tính toàn cầu. Mỗi năm có gần 5 nghìn tỷ hàng hoá được vận chuyển qua Biển Đông.[103] Đối với Trung cộng mà nói, thì con đường tơ lụa trên biển của nó là bắt đầu từ Biển Đông. 80% lượng dầu mỏ nhập khẩu của Trung cộng được vận chuyển qua Biển Đông.[104] Mà hoà bình khu vực Biển Đông, từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 vẫn luôn do quân đội Mỹ và đồng minh duy trì. Điều này khiến cho Trung cộng vốn chuẩn bị một trận chiến với nước Mỹ như có gai trên lưng. Trung cộng coi Biển Đông là khu vực có tính then chốt để bảo đảm phát triển kinh tế và chiến lược mở rộng quân sự hơn nữa của nó.
Giáo sư chính trị học của học viện công nghệ Massachusetts, ông M. Taylor Fravel sau khi suy xét những tranh chấp lãnh thổ mà Trung cộng giải quyết trong lịch sử đã đưa ra một sự thực thú vị: từ năm 1949 trở đi, Trung Quốc và các nước láng giềng phát sinh 23 cuộc tranh chấp lãnh thổ. Trung cộng đã giải quyết 17 cuộc tranh chấp trong đó; mà 15 cuộc tranh chấp trong số 17 tranh chấp này, Bắc Kinh đã nhượng bộ về những lãnh thổ tranh chấp ấy một cách rõ rệt. Nhưng đối với Biển Đông, từ những năm 50 thế kỷ trước khi Hải quân Trung cộng còn cực kỳ yếu, đã chủ trương [là] có chủ quyền “không thể tranh cãi” đối với khu vực tranh chấp, mà loại ngôn luận có tính tuyệt đối này chưa từng xuất hiện tại các xung đột lãnh thổ khác.[105]
Rất hiển nhiên, “một tấc đất cũng phải tranh” không phải là tư tưởng chỉ đạo để giải quyết tất cả các cuộc tranh chấp lãnh thổ của Trung cộng. Giáo sư Fravel đã nêu ra rất nhiều lý do cho lập trường cứng rắn của Trung cộng ở Biển Đông, một nguyên nhân chủ yếu nhất trong đó là Trung cộng để mắt tới giá trị chiến lược của Biển Đông. Từ những đảo đá ngầm này, Trung cộng không những có thể có quyền quản hạt khu vực biển lân cận vốn có khả năng chứa lượng tài nguyên thiên nhiên lớn, mà thậm chí còn có thể có quyền quản hạt đối với những hoạt động nhất định của tàu chiến hải quân nước ngoài. Những đảo đá ngầm ở Biển Đông này còn có thể phát triển thành trận địa tuyến đầu của lực lượng quân sự cảnh báo sớm; ngoài ra khống chế khu vực này còn có thể ngăn chặn các nước khác theo dấu tàu ngầm Trung cộng từ Biển Đông đi vào Tây Thái Bình Dương.[106]
Dã tâm và bành trướng của Trung cộng tại khu vực Biển Đông, nhất là đơn phương thực hiện những hành động thực tế để thay đổi hiện trạng mấy năm gần đây, [gây ra] ảnh hưởng trực tiếp là khiến cho các quốc gia khác bị buộc phải chạy đua quân sự, làm gia tăng căng thẳng quân sự trong khu vực. Nhật Bản đã đảo ngược cục diện cắt giảm chi tiêu quân sự trong 10 năm nay, còn Ấn Độ thì lại khôi phục việc hiện đại hoá hải quân từng bị ngưng trệ.[107]
Trung cộng lấy lý do là để bảo đảm an ninh tuyến vận chuyển năng lượng, hàng hoá, mà không ngừng bành trướng ở Biển Đông, bản thân hành động phá bỏ cân bằng vốn có, khiến cho khả năng xung đột ở khu Biển Đông càng ngày càng gia tăng. Có học giả chỉ ra, chính bản thân việc Trung cộng coi Biển Đông là một vấn đề an ninh, đã khiến cho an ninh của khu vực bị xói mòn.[108] Quan sát này và quan điểm của Bannon nói trên là tương đồng.
Năm 2017, quân đội Trung cộng thiết lập căn cứ quân sự hải ngoại đầu tiên ở Djibouti. Các học giả phương Tây cho rằng, tầm nhìn của quân đội Trung cộng đã vượt qua Tây Thái Bình Dương, đang nghĩ xem làm thế nào để đưa quân lực phóng ra càng xa hơn nữa.[109] Ví dụ gần đây Trung cộng rất năng động ở các đảo quốc Thái Bình Dương, không tính gì đến chi phí đầu tư, mục tiêu lâu dài của nó là các đảo quốc này tương lai có thể trở thành trạm cung cấp cho các hạm đội viễn dương Trung cộng.[110] Mà sự mở rộng quân sự của Trung cộng không chỉ giới hạn ở hải lục không quân truyền thống, nó đang khuếch trương và mở rộng từ lục địa đến hải dương, và những lĩnh vực công cộng toàn cầu như không gian, không gian điện từ.
Dã tâm quân sự của Trung cộng có một cơ sở là số lượng nhân lực, trang bị và kinh phí khổng lồ.
Trung cộng duy trì quân chính quy với quy mô lớn nhất trên thế giới, có 2 triệu quân nhân thường trực. Quân đội Trung cộng còn có lục quân với quy mô lớn nhất thế giới, và số lượng tàu chiến đứng đầu thế giới, hải quân đứng thứ 3 thế giới và không quân với quy mô khổng lồ, có năng lực tấn công hạt nhân của tam vị nhất thể cấu thành bởi tên lửa đạn đạo liên lục địa, tàu ngầm tên lửa đạn đạo, oanh tạc cơ chiến lược.
Trung cộng còn có 1,7 triệu cảnh sát vũ trang, do quân uỷ Trung ương thống nhất lãnh đạo, và quân dự bị, dân quân với số lượng khổng lồ. Tư tưởng chỉ đạo quân sự của Trung cộng luôn bao gồm “chiến tranh nhân dân”, dưới thể chế chuyên chế của Trung cộng, có thể nhanh chóng dùng tất cả mọi lực lượng có thể để tiến hành chuyển biến thành quân sự hoá, có nghĩa là với rất nhiều người Hoa hải ngoại và tỷ mấy người bản địa, họ là “dân binh”, vào thời khắc cần thiết đều có thể bị Trung cộng cưỡng ép trở thành lực lượng quân sự.
Tổng sản lượng kinh tế Trung Quốc trong khoảng 1997~2007 tăng trưởng nhanh chóng. Trung cộng dựa vào sức mạnh kinh tế, nhanh chóng mở rộng trang bị quân sự, nâng cấp kho vũ khí. Theo dự đoán, đến năm 2020, Lục quân Trung cộng sẽ có 5000 xe tăng chiến đấu hiện đại. Hải quân sẽ có ít nhất 2 hàng không mẫu hạm. Không quân có 90% chiến đấu cơ thế hệ thứ 4, thậm chí bắt đầu có chiến đấu cơ thế hệ thứ 5.
Từ 2008 đến 2017 dự toán quốc phòng của Trung cộng bình quân mỗi năm tăng trưởng 6%, năm 2017 đã đạt 154,3 tỷ đô-la, đứng thứ 2 thế giới.[111] Mà theo ngoại giới ước lượng, chi phí quân sự thực tế của Trung cộng phải gấp 2 lần con số công bố chính thức. Không chỉ như vậy, quân lực của quân đội Trung cộng không hoàn toàn phản ánh ở chi phí quân sự, bởi vì chi phí quân sự thực tế cao hơn con số công khai, hơn nữa Trung cộng có thể tùy ý mà trưng dụng rất nhiều hạ tầng và nhân lực dân dụng, toàn bộ hệ thống công nghiệp đều có thể phục vụ nhu cầu của chiến tranh, điều này nghĩa là năng lực trang bị quân sự thật sự của nó vượt quá rất nhiều so với số liệu chính thức và dự đoán thông thường của ngoại giới.
Vào trước cuối năm 2020 Trung cộng sẽ xây dựng hệ thống toàn cầu tạo bởi hơn 30 vệ tinh định vị Bắc đẩu, có năng lực định vị quân sự của hệ thống GPS toàn cầu. Việc sản xuất quy mô lớn chiến đấu cơ quân sự không người lái dòng Cầu Vồng cung cấp cho Trung cộng nhiều lựa chọn chiến thuật hơn, chẳng hạn nhắm vào cục diện eo biển Đài Loan, Trung cộng có khả năng thông qua chiến thuật “biển máy bay” bởi chiến đấu cơ không người lái mà chiếm ưu thế.[112] Một lượng lớn các máy bay không người lái dưới sự điều khiển bởi vệ tinh và trí tuệ nhân tạo sẽ hình thành bầy đàn, sẽ dễ dàng phát huy ưu thế của số lượng và giá thành thấp, ở mức cục bộ sẽ hình thành trạng thái chiến tranh bất đối xứng.
Tại triển lãm hàng không Chu hải dòng tiêm kích tàng hình J-20 nổi bật, được cho là bản sao chép của F-22 của Mỹ; J-31 và F-35 hình dạng vô cùng giống nhau. Những điều này đều cho thấy Trung cộng đang thu hẹp khoảng cách với Mỹ ở các thế hệ chiến đấu cơ mới.
Ngoài ra, Trung cộng sử dụng các loại chiến tranh gián điệp, về mặt kỹ thuật nhanh chóng đuổi kịp Mỹ. Có 90% hành vi gián điệp trên mạng nhắm vào nước Mỹ là đến từ Trung Quốc, Trung cộng thâm nhập trên mạng vào các công ty và quân đội Mỹ, đánh cắp những kỹ thuật và tri thức mà bản thân họ không cách nào nghiên cứu phát triển.[113] Kỹ thuật máy bay không người lái của Trung cộng chính là đánh cắp từ nước Mỹ.
Về chiến thuật, Trung cộng nhiệt tình với “năng lực tác chiến bất đối xứng”(asymmetric warfare, asymmetric strategy, asymmetric weapons.[114] Tân chỉ huy Bộ tư lệnh Ấn độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ, thượng tướng Hải quân Philip S. Davidson mô tả Trung Quốc là “đối thủ cạnh tranh rất có thực lực”, Trung Quốc không chỉ dựa vào sự cân xứng hoả lực vũ khí đối vũ khí, mà là thông qua việc xây dựng những “năng lực bất đối xứng” then chốt, bao gồm việc dùng tên lửa chống hạm và năng lực trong chiến tranh tàu ngầm để đuổi kịp Mỹ. Ông cảnh báo: “không thể bảo đảm thắng lợi của Mỹ trong một cuộc xung đột trong tương lai với Trung Quốc”[115] Tên lửa Đông Phong 21D do Trung cộng nghiên cứu phát triển (tên lửa đạn đạo chống hạm, nhắm vào hàng không mẫu hạm Mỹ) tiến hành đối kháng theo kiểu tương tự như bắn tỉa. Năm 2018, Trung cộng công khai triển lãm tên lửa mặt đất chống hạm siêu âm Đại Bàng 12B, được gọi là “sát thủ hàng không mẫu hạm”, nó vẽ ra một “khu vực chết” của hàng không mẫu hạm Mỹ với bán kính 550 km ở Tây Thái Bình Dương, có thể thông qua dùng hình thức bão hòa hoả lực đột phá phòng thủ tầm cực thấp tấn công cụm hàng không mẫu hạm Mỹ, những tên lửa này trở thành phương tiện quân sự quan trọng trong “chống can dự/từ chối khu vực” dùng để chống sự can thiệp từ Mỹ (Anti-Access/Area Denial) của Trung cộng.
Sau khi Trung cộng bành trướng sức mạnh quân sự, không ngừng vũ trang cho các chính quyền tham nhũng độc tài trên thế giới, như Bắc Triều Tiên, các chính quyền lưu manh ở Trung Đông, một mặt mở rộng đồng minh quân sự của nó, một mặt khác phân tán và làm suy giảm sức mạnh quân sự của Mỹ. Trung cộng reo rắc ngôn luận thù hận Mỹ trên toàn cầu, kích động tình cảm chống Mỹ, cũng rất dễ khiến cho Trung cộng và các chính quyền chống Mỹ kia liên hợp lại, thực hiện dã tâm bá quyền của nó.
Đồng thời Trung cộng cổ suý những lý luận quân sự theo kiểu chủ nghĩa khủng bố như chiến tranh không giới hạn. Bắt đầu cổ suý cho sự cần thiết chiến tranh (“chiến tranh cách chúng ta không còn xa, nó là bà đỡ của thế kỷ Trung Hoa”), bạo lực khủng bố thần thánh (“Việc chết người là động lực thúc đẩy lịch sử tiến lên”), xâm lược có lý (“không có quyền chiến tranh thì không có quyền phát triển”, “sự phát triển của một nước có nghĩa là sự uy hiếp đối với một nước khác, đây mới là quy luật chung của lịch sử thế giới”).[116]
Chu Thành Hổ, viện trưởng Học viện Phòng vệ Đại học Quốc Phòng Trung cộng đã công khai đe doạ: Nếu nước Mỹ can dự vào chiến sự ở eo biển Đài Loan, phía Trung Quốc đầu tiên sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân, khiến cho hàng trăm thành phố của Mỹ bị san thành bình địa, cho dù toàn bộ khu vực từ Tây An về đông Trung Quốc bị phá huỷ cũng không tiếc. Chính là một lần công khai biểu lộ dã tâm Trung cộng, cũng là một lần thử phản ứng đối với xã hội quốc tế.[117]
Điều phải nhấn mạnh là, quân sự của Trung cộng là phục tùng chính trị, dã tâm quân sự của Trung cộng chỉ là một bộ phận nhỏ của toàn bộ dã tâm của nó. Ý đồ của Trung cộng là dựa vào kinh tế và quân sự làm hậu thuẫn, áp đặt hình thái ý thức chủ nghĩa cộng sản lên toàn cầu.[118]
*********
Tài liệu tham khảo:[1] 趙可金:〈和平發展道路:模式的突破〉,《人民網》,2009年11月11日,http://theory.people.com.cn/GB/10355796.html。
[2] 國防大學等:《較量無聲》,2013年6月,https://www.youtube.com/watch?v=iUjkSJxJDcw&t=2190s。
[3] “Testimony of Arthur Waldron,” in “U.S.-China Relations: Status of Reforms in China,” Subcommittee on East Asian and Pacific Affairs, Committee on Foreign Relations, United States Senate, April 22, 2004, https://www.foreign.senate.gov/imo/media/doc/WaldronTestimony040422.pdf.
[4] 克里斯‧賈爾斯:〈世行:中國今年或將成全球最大經濟體〉,《金融時報中文網》,2014年4月30日,http://www.ftchinese.com/story/001056024?full=y&archive。
[5] 陳良賢,蘇顥雲:〈海外港口熱:中企如何布局?〉,《澎湃新聞》,2017年8月17日,https://www.thepaper.cn/newsDetail_forward_1758810。
[6] Derek Watkins, K.K. Rebecca Lai and Keith Bradsher, “The World, Built by China,” The New York Times, November 18, 2018, https://www.nytimes.com/interactive/2018/11/18/world/asia/world-built-by-china.html.
[7] Andrew Sheng, “A Civilizational Clash with China Comes Closer,” Asia Global Institute, The University of Hong Kong, January 16, 2018, http://www.asiaglobalinstitute.hku.hk/en/civilizational-clash-china-comes-closer/.
[8] 吳心伯:〈對周邊外交研究的一些思考〉,《世界知識》,2015年第2期,http://www.cas.fudan.edu.cn/picture/2328.pdf。
[9]“Power and Influence: The Hard Edge of China’s Soft Power,” Australian Broadcasting Corporation, June 5, 2017, https://www.abc.net.au/4corners/power-and-influence-promo/8579844.
[10] “Sam Dastyari Resignation: How We Got Here,” Australian Broadcasting Corporation, December 11, 2017, https://www.abc.net.au/news/2017-12-12/sam-dastyari-resignation-how-did-we-get-here/9249380.
[11] 〈深度:中國捐贈對澳洲影響有多大?外國政治獻金是否該禁?〉, SBS News, September 12, 2016, https://www.sbs.com.au/yourlanguage/mandarin/zh-hant/article/2016/09/12/shen-du-zhong-guo-juan-zeng-dui-ao-zhou-ying-xiang-you-duo-da-wai-guo-zheng-zhi?language=zh-hant.
[12] Mareike Ohlberg and Bertram Lang, “How to Counter China’s Global Propaganda Offensive,” The New York Times, September 21, 2016, https://www.nytimes.com/2016/09/22/opinion/how-to-counter-chinas-global-propaganda-offensive.html?_ga=2.63090735.1831033231.1544154630-97544283.1541907311.
[13] Jonathan Pearlman, “US Alarm over Aussie Port Deal with China Firm,” The Strait Times, November 19, 2015, https://www.straitstimes.com/asia/australianz/us-alarm-over-aussie-port-deal-with-china-firm.
[14] Tara Francis Chan, “Rejected Three Times Due to Fear of Beijing, Controversial Book on China’s Secret Influence Will Finally Be Published,” Business Insider, February 5, 2018, https://www.businessinsider.com/australian-book-on-chinas-influence-gets-publisher-2018-2.
[15] Christopher Walker and Jessica Ludwig, “From ‘Soft Power’ to ‘Sharp Power’: Rising Authoritarian Influence in the Democratic World,” in Sharp Power: Rising Authoritarian Influence (Washington, DC: National Endowment for Democracy, 2017), 20, https://www.ned.org/wp-content/uploads/2017/12/Sharp-Power-Rising-Authoritarian-Influence-Full-Report.pdf.
[16] 2017 Foreign Policy White Paper, Australian Government, 2017, https://www.fpwhitepaper.gov.au/foreign-policy-white-paper/overview.
[17] Caitlyn Gribbin, “Malcolm Turnbull Declares He Will ‘Stand Up’ for Australia in Response to China’s Criticism,” Australian Broadcasting Corporation, December 8, 2017, https://www.abc.net.au/news/2017-12-09/malcolm-turnbull-says-he-will-stand-up-for-australia/9243274.
[18] 陳用林:〈陳用林:澳大利亞正在淪為中國的後院〉,《大紀元新聞網》,2016年9月2日,http://www.epochtimes.com/b5/16/9/2/n8261061.htm。
[19] Clive Hamilton. Silent Invasion: China’s influence in Australia (Melbourne: Hardie Grant, 2018), Chapter 1.
[20] Như trên.
[21] Như trên.
[22] Như trên.
[23] Clive Hamilton, Silent Invasion: China’s influence in Australia, Chapter 3.
[24] 林坪:〈揭祕中國銳實力(十)紐西蘭〉,自由亞洲電台,2018年9月25日,https://www.rfa.org/mandarin/zhuanlan/zhuantixilie/zhongguochujiaoshenxiangshijie/jm-09252018162912.html。
[25] Như trên.
[26] Như trên.
[27] 林廷輝:〈龍在陌生海域:中國對太平洋島國外交之困境〉,《國際關係學報》,第三十期(2010年7月),頁58。https://diplomacy.nccu.edu.tw/download.php?filename=451_b9915791.pdf&dir=archive&title=File。
[28] John Henderson and Benjamin Reilly, “Dragon in Paradise: China’s Rising Star in Oceania,” The National Interest, no. 72 (Summer 2003): 94-105.
[29] Ben Bohane, “The U.S. Is Losing the Pacific to China,” The Wall Street Journal, June 7, 2017, https://www.wsj.com/articles/the-u-s-is-losing-the-pacific-to-china-1496853380.
[30] Josh Rogin, “Inside China’s ‘Tantrum Diplomacy’ at APEC,” The Washington Post, November 20, 2018, https://www.washingtonpost.com/news/josh-rogin/wp/2018/11/20/inside-chinas-tantrum-diplomacy-at-apec/.
[31] “China’s Central Asia Problem,” Asia Report No.244 (Brussels: International Crisis Group, Feb 27, 2013), https://www.crisisgroup.org/europe-central-asia/central-asia/china-s-central-asia-problem.
[32] Wu Jiao and Zhang Yunbi, “Xi Proposes a ‘New Silk Road’ with Central Asia,” China Daily, September 8, 2013, http://www.chinadaily.com.cn/sunday/2013-09/08/content_16952160.htm.
[33] Raffaello Pantucci, Sarah Lain, “China’s Eurasian Pivot: The Silk Road Economic Belt,” Whitehall Papers 88, no. 1 (May 16, 2017), https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/02681307.2016.1274603.
[34] “China’s Central Asia Problem,” International Crisis Group, https://www.crisisgroup.org/europe-central-asia/central-asia/china-s-central-asia-problem.
[35] 〈孔泉:中國支持烏茲別克斯坦為國家安全所做努力〉,人民網,2005年5月17日,http://world.people.com.cn/GB/8212/14450/46162/3395401.html。
[36] Benno Zogg, “Turkmenistan Reaches Its Limits with Economic and Security Challenges,” The Global Observatory, July 31, 2018, https://theglobalobservatory.org/2018/07/turkmenistan-limits-economic-security-challenges/.
[37] Jakub Jakóbowski and Mariusz Marszewski, “Crisis in Turkmenistan. A test for China’s Policy in the Region,” Centre for Eastern Studies (OSW), August 31, 2018, https://www.osw.waw.pl/en/publikacje/osw-commentary/2018-08-31/crisis-turkmenistan-a-test-chinas-policy-region-0.
[38] Eiji Furukawa, “Belt and Road Debt Trap Spreads to Central Asia,” Nikkei Asian Review, August 29, 2018, https://asia.nikkei.com/Spotlight/Belt-and-Road/Belt-and-Road-debt-trap-spreads-to-Central-Asia.
[39] “Tajikistan: Chinese Company Gets Gold Mine in Return for Power Plant,” Eurasianet, April 11, 2018, https://eurasianet.org/tajikistan-chinese-company-gets-gold-mine-in-return-for-power-plant.
[40] “Risky Business: A Case Study of PRC Investment in Tajikistan and Kyrgyzstan, ” China Brief (Jamestown) 18, no. 14, https://jamestown.org/program/risky-business-a-case-study-of-prc-investment-in-tajikistan-and-kyrgyzstan/.
[41] Juan Pablo Cardenal, Heriberto Araujo, China’s Silent Army: The Pioneers, Traders, Fixers and Workers Who Are Remaking the World in Beijing’s Image (New York: Crown Publishing Group, 2013), Chapter 2.
[42] Lindsey Kennedy & Nathan Paul Southern, “China Created a New Terrorist Threat by Repressing Secessionist Fervor in Its Western Frontier,” Quartz, May 31, 2017, https://qz.com/993601/china-uyghur-terrorism/.
[43] 徐進等:〈打造中國周邊安全的「戰略支點」國家〉,《世界知識》,2014年15期,頁14-23,http://cssn.cn/jjx/xk/jjx_lljjx/sjjjygjjjx/201411/W020141128513034121053.pdf。
[44] Therese Delpech, Iran and the Bomb: The Abdication of International Responsibility (New York: Columbia University Press, 2006), 49.
[45] Juan Pablo Cardenal, Heriberto Araujo, China’s Silent Army: The Pioneers, Traders, Fixers and Workers Who Are Remaking the World in Beijing’s Image, Epilogue.
[46] Seyed Reza Miraskari, et. al., “An Analysis of International Outsourcing in Iran-China Trade Relations,” Journal of Money and Economy 8, No 1 (Winter 2013): 110-139, http://jme.mbri.ac.ir/article-1-86-en.pdf.
[47] Scott Harold, Alireza Nader, China and Iran: Economic, Political, and Military Relations (Washington, DC: RAND Corporation, 2012), 7, https://www.rand.org/content/dam/rand/pubs/occasional_papers/2012/RAND_OP351.pdf.
[48] 〈繞過「馬六甲困局」的商業基礎——如何保證中緬油氣管道有效運營〉,《第一財經日報》,2013年7月22日,https://www.yicai.com/news/2877768.html.
[49] Li Chenyang, “China-Myanmar Relations since 1988,” in Harmony and Development: Asean-China Relations, eds. Lim Tin Seng and Lai Hongyi (Singapore: World Scientific Publishing, 2007), 54.
[50] Như trên.
[51] “China’s Myanmar Dilema,” Asia Report No.177 (Brussels: International Crisis Group, 2009), 1, https://d2071andvip0wj.cloudfront.net/177-china-s-myanmar-dilemma.pdf.
[52] 〈閒置兩年後 中緬原油管道終於開通〉,《BBC中文網》,2017年4月10日,https://www.bbc.com/zhongwen/simp/chinese-news-39559135。
[53] 莊北甯,車宏亮:〈中緬簽署皎漂深水港專案框架協定〉,《新華網》,2018年11月8日,http://www.xinhuanet.com/2018-11/08/c_1123686146.htm。
[54] 鹿鋮:〈中緬經濟走廊:緬甸發展的新興途徑〉,《光明網》,2018年9月17日,http://news.gmw.cn/2018-09/17/content_31210352.htm。
[55] 林坪:〈揭祕中國銳實力(十一)歐洲政界〉,《自由亞洲電台》,https://www.rfa.org/mandarin/zhuanlan/zhuantixilie/zhongguochujiaoshenxiangshijie/yl-11052018102634.html。
[56] Jason Horowitz, Liz Alderman:〈沒有炮艇的新殖民主義:希臘投身中國懷抱〉,《紐約時報中文網》,2017年8月28日,https://cn.nytimes.com/world/20170828/greece-china-piraeus-alexis-tsipras/。
[57] Như trên.
[58] Jan Velinger, “President’s Spokesman Lashes out at Culture Minister for Meeting with Dalai Lama,” Radio Praha, October 18, 2016, https://www.radio.cz/en/section/curraffrs/presidents-spokesman-lashes-out-at-culture-minister-for-meeting-with-dalai-lama.
[59] 林坪:〈揭祕中國銳實力(十一)歐洲政界〉,《自由亞洲電台》,2018年11月5日,https://www.rfa.org/mandarin/zhuanlan/zhuantixilie/zhongguochujiaoshenxiangshijie/yl-11052018102634.html。
[60] 〈德國藍皮書:中國在德國非金融直接投資大幅增長〉,《觀察者網》,2018年7月9日,http://mil.news.sina.com.cn/dgby/2018-07-09/doc-ihezpzwt8827910.shtml。
[61] Chinese Influence & American Interests: Promoting Constructive Vigilance (Stanford, CA: Hoover Institution Press, 2018), https://www.hoover.org/sites/default/files/research/docs/chineseinfluence_americaninterests_fullreport_web.pdf, 163.
[62] Philip Oltermann, “Germany’s ‘China City’: How Duisburg Became Xi Jinping’s Gateway to Europe,” The Guardian, August 1, 2018, https://www.theguardian.com/cities/2018/aug/01/germanys-china-city-duisburg-became-xi-jinping-gateway-europe.
[63] 〈希拉克:熱愛中國的人〉,《中國網》,2007年3月20日, http://www.china.com.cn/international/txt/2007-03/20/content_18421202.htm。
[64] 聯合寫作組:《真實的江澤民》,〈第九章 貪戰(上)〉,《大紀元新聞網》,http://www.epochtimes.com/b5/12/6/18/n3615092.htm。
[65] Nick Timothy, “The Government Is Selling Our National Security to China,” Conservative Home, October 20, 2015, http://www.conservativehome.com/thecolumnists/2015/10/nick-timothy-the-government-is-selling-our-national-security-to-china.html.
[66] Holly Watt, “Hinkley Point: the ‘Dreadful Deal’ behind the World’s Most Expensive Power Plant,” The Guardian, December 21, 2017, https://www.theguardian.com/news/2017/dec/21/hinkley-point-c-dreadful-deal-behind-worlds-most-expensive-power-plant.
[67] 林坪:〈揭祕中國銳實力(十二)在歐洲的經濟滲透〉,《自由亞洲電台》,2018年11月8日,https://www.rfa.org/mandarin/zhuanlan/zhuantixilie/zhongguochujiaoshenxiangshijie/yl-11082018122750.html;〈揭祕中國銳實力(十三)歐洲學術、言論自由〉,《自由亞洲電台》,2018年11月12日,https://www.rfa.org/mandarin/zhuanlan/zhuantixilie/zhongguochujiaoshenxiangshijie/MCIEU-11122018165706.html。
[68] Jack Hazlewood, “China Spends Big on Propaganda in Britain… But Returns Are Low,” Hong Kong Free Press, https://www.hongkongfp.com/2016/04/03/china-spends-big-on-propaganda-in-britain-but-returns-are-low/.
[69] Thorsten Benner, et al, “Authoritarian Advance: Responding to China’s Growing Political Influence in Europe,” Global Public Policy Institute (GPPI), https://www.gppi.net/media/Benner_MERICS_2018_Authoritarian_Advance.pdf.
[70] Christophe Cornevin, Jean Chichizola, “Les révélations du Figaro sur le programme d’espionnage chinois qui vise la France,” Le Figaro, October 22, 2018, http://www.lefigaro.fr/actualite-france/2018/10/22/01016-20181022ARTFIG00246-les-revelations-du-figaro-sur-le-programme-d-espionnage-chinois-qui-vise-la-france.php.
[71] “German Spy Agency Warns of Chinese LinkedIn Espionage,” BBC News, December 10, 2017, https://www.bbc.com/news/world-europe-42304297.
[72] Serge Michel and Michel Beuret, China Safari: On the Trail of Beijing’s Expansion in Africa (New York: Nation Books, 2010), 162.
[73] Reuben, Brigety, “A Post-American Africa,” Foreign Affairs, August 28, 2018, https://www.foreignaffairs.com/articles/africa/2018-08-28/post-american-africa.
[74] “Not as Bad as They Say: Zambians—and Other Africans—Know They Must Get along with the Chinese” Economist, October 1, 2011, https://www.economist.com/middle-east-and-africa/2011/10/01/not-as-bad-as-they-say.
[75] Joseph Hammond, “Sudan: China’s Original Foothold in Africa,” The Diplomat, June 14, 2017, https://thediplomat.com/2017/06/sudan-chinas-original-foothold-in-africa/.
[76] 曾勇,〈中國處理達爾富爾危機的戰略分析〉,《阿拉伯世界研究》,2012年11月,第六期,http://mideast.shisu.edu.cn/_upload/article/23/47/8ee05ca2405488f615e514184f73/077159aa-8c97-41b8-bcc3-95c22c3ba732.pdf。
[77] 〈北京盛情款待遭通緝的蘇丹總統巴希爾〉,《法廣》,2011年6月29日,http://cn.rfi.fr/中國/20110629-北京盛情款待遭通緝的蘇丹總統巴希爾。
[78] 中共國務院新聞辦公室《中國的和平發展道路》稱,截至2005年,中國減免了44個發展中國家約166億元人民幣債務。http://www.scio.gov.cn/zfbps/ndhf/2005/Document/307900/307900.htm。
[79] 潘小濤:〈中國人,請準備再大撒幣〉,《蘋果日報》,2018年8月31日,https://hk.news.appledaily.com/local/daily/article/20180831/20488504。
[80] 〈商務部:非洲33個最不發達國家97%的產品享受零關稅〉,《中新網》,2018年8月28日,http://www.chinanews.com/gn/2018/08-28/8612256.shtml。
[81] 家傲:〈中國再向非洲大撒幣 美國警覺〉,《自由亞洲電台》,2018年9月3日,https://www.rfa.org/mandarin/yataibaodao/junshiwaijiao/hc-09032018110327.html。
[82] 泉野:〈對話王文:從撒錢論到「新殖民主義」誤區背後的真問題〉,《多維》,2018年9月2日,http://news.dwnews.com/china/news/2018-09-02/60081911_all.html。
[83] 蔡臨哲:〈埃塞俄比亞學習「中國模式」〉,《鳳凰週刊》,2013年5月15日,http://www.ifengweekly.com/detil.php?id=403。
[84] 安德魯‧哈丁:〈記者來鴻:非洲出了個「新中國」〉,《BBC中文網》,2015年7月27日,https://www.bbc.com/ukchina/simp/fooc/2015/07/150727_fooc_ethiopia_development。
[85] 斯洋:〈爭奪話語權,輸出中國模式,中國影響歐美和亞非方式大不同〉,《美國之音》,2018年12月7日,https://www.voachinese.com/a/4420434.html。
[86] Alfonso Serrano:〈中國填補了美國在拉美留下的影響力真空〉,《紐約時報中文網》,2018年4月17日,https://cn.nytimes.com/opinion/20180417/china-trump-pence-summit-lima-latin-america/zh-hant/。
[87] 豪爾赫‧布拉斯蓋思-利多伊、哈威爾‧羅德里格斯、哈威爾‧桑迪索:〈中國對外貿易對拉美國家的影響:是禍還是福〉,https://www.oecd.org/brazil/38881800.pdf。該文章的西班牙文原文為「Angel o demonio? Los efectos del comercio chino en los países de América Latina」,載聯合國拉美經委會雜誌Revista de la CEPAL(2006年12月號)上。本文參考的是中譯本。
[88] Jordan Wilson, China’s Military Agreements with Argentina: A Potential New Phase in China-Latin America Defense Relations, U.S-China Economic and Security Review Commission Staff Research Report, November 5, 2015, https://www.uscc.gov/sites/default/files/Research/China’s Military Agreements with Argentina.pdf.
[89] 金雨森:〈中共金錢外交恐成為最後一根稻草〉,《看中國》,2017年7月5日,https://www.watchinese.com/article/2017/23053。
[90] 〈中共巨額金援搶薩爾瓦多 引美國憂慮〉,新唐人電視台,2018年8月22日,http://www.ntdtv.com/xtr/gb/2018/08/23/a1388573.html。
[91] 黃瀟瀟:〈拉美和加勒比地區孔子學院達39所〉,《人民網》,2018年1月26日,http://world.people.com.cn/n1/2018/0126/c1002-29788625.html。
[92] Sharon Weiberger, “China Has Already Won the Drone Wars,” Foreign Policy, May 10, 2018, https://foreignpolicy.com/2018/05/10/china-trump-middle-east-drone-wars/.
[93] Rick Joe, “China’s Air Force on the Rise: Zhuhai Airshow 2018,” The Diplomat, November 13, 2018, https://thediplomat.com/2018/11/chinas-air-force-on-the-rise-zhuhai-airshow-2018/.
[94] 黃宇翔:〈中國無人戰機驚豔珠海航展亮相假想敵是美國〉,《亞洲週刊》,2018年11月25日,第32卷 46期,https://www.yzzk.com/cfm/blogger3.cfm?id=1542252826622&author=黃宇翔。
[95] “Pentagon Says Chinese Vessels Harassed U.S. Ship,” CNN, March 9, 2009, http://www.cnn.com/2009/POLITICS/03/09/us.navy.china/index.html.
[96] “Chinese Boats Harassed U.S. Ship, Officials Say,” CNN, May 5, 2009, http://edition.cnn.com/2009/WORLD/asiapcf/05/05/china.maritime.harassment/index.html.
[97] Barbara Starr, Ryan Browne and Brad Lendon, “Chinese Warship in ‘Unsafe’ Encounter with US Destroyer, amid Rising US-China Tensions,” CNN, October 1, 2018, https://www.cnn.com/2018/10/01/politics/china-us-warship-unsafe-encounter/index.html.
[98] 軍事科學院軍事戰略研究部:《戰略學》(北京:軍事科學出版社,2013),頁47。
[99] 喬良:〈「一帶一路」戰略要考慮軍事力量走出去問題〉,《中國軍網》,2015年4月15日,http://www.81.cn/jmywyl/2015-04/15/content_6443998_5.htm。
[100] Annual Report to Congress: Military and Security Developments Involving the People’s Republic of China 2018, US Department of Defense, May 16, 2018, https://media.defense.gov/2018/Aug/16/2001955282/-1/-1/1/2018-CHINA-MILITARY-POWER-REPORT.PDF, 46, 47.
[101] Benjamin Haas, “Steve Bannon: ‘We’re Going to War in the South China Sea … No Doubt’, “ The Guardian, February 1, 2017, https://www.theguardian.com/us-news/2017/feb/02/steve-bannon-donald-trump-war-south-china-sea-no-doubt.
[102] Lawrence Sellin, “The US Needs a New Plan to Address Chinese Power in Southern Asia,” The Daily Caller, June 5, 2018, https://dailycaller.com/2018/06/05/afghanistan-pakistan-america-china/.
[103] Panos Mourdoukoutas, “China Will Lose The South China Sea Game,” Forbes, July 1, 2018, https://www.forbes.com/sites/panosmourdoukoutas/2018/07/01/china-will-lose-the-south-china-sea-game/#5783cad73575.
[104] Michael Lelyveld, “China Will Lose the South China Sea Game,” Radio Free Asia, December 4, 2017, https://www.rfa.org/english/commentaries/energy_watch/chinas-oil-import-dependence-climbs-as-output-falls-12042017102429.html.
[105] M. Taylor Fravel, “Why Does China Care So Much about the South China Sea? Here Are 5 Reasons,” The Washington Post, July 13, 2016, https://www.washingtonpost.com/news/monkey-cage/wp/2016/07/13/why-does-china-care-so-much-about-the-south-china-sea-here-are-5-reasons/?utm_term=.4a7b1de04dbd.
[106] Như trên.
[107] Brahma Chellaney, “Why the South China Sea Is Critical to Security,” The Japan Times, March 26, 2018, https://www.japantimes.co.jp/opinion/2018/03/26/commentary/world-commentary/south-china-sea-critical-security/#.XAnOBBNKiF1.
[108] Scott L. Montgomery, “Oil, History, and the South China Sea: A Dangerous Mix,” Global Policy, August 7, 2018, https://www.globalpolicyjournal.com/blog/07/08/2018/oil-history-and-south-china-sea-dangerous-mix.
[109] Hal Brands, “China’s Master Plan: a Global Military Threat,” The Japan Times, June 12, 2018, https://www.japantimes.co.jp/opinion/2018/06/12/commentary/world-commentary/chinas-master-plan-global-military-threat/#.W9JPPBNKj5V.
[110] 林廷輝,〈龍在陌生海域:中國對太平洋島國外交之困境〉,《國際關係學報》第三十期(2010年7月),https://diplomacy.nccu.edu.tw/download.php?filename=451_b9915791.pdf&dir=archive&title=File,頁58。
[111] Annual Report to Congress: Military and Security Developments Involving the People’s Republic of China 2018, US Department of Defense, May 16, 2018, https://media.defense.gov/2018/Aug/16/2001955282/-1/-1/1/2018-CHINA-MILITARY-POWER-REPORT.PDF.
[112] 黃宇翔:〈中國無人戰機驚艷珠海航展亮相假想敵是美國〉,《亞洲週刊》,2018年11月25日, 第32卷 46期,https://www.yzzk.com/cfm/blogger3.cfm?id=1542252826622&author=黃宇翔。
[113] David E. Sanger, “U.S. Blames China’s Military Directly for Cyberattacks,” The New York Times, May 6, 2013, http://www.nytimes.com/2013/05/07/world/asia/us-accuses-chinas-military-in-cyberattacks.html?pagewanted=all&_r=1&.
[114] 對此問題白宮國家貿易委員會主任彼得‧納瓦羅在其著作中有深入分析和論述。參見:Peter Navarro, Crouching Tiger: What China’s Militarism Means for the World (New York: Prometheus Books, 2015)。
[115] Steven Lee Myers, 「With Ships and Missiles, China Is Ready to Challenge U.S. Navy in Pacific,
The New York Times, August 29, 2018, https://www.nytimes.com/2018/08/29/world/asia/china-navy-aircraft-carrier-pacific.html.
[116] 據稱出自中共將領遲浩田(1993年—2003年任國防部長)的兩篇講話,〈戰爭正在向我們走來〉、〈戰爭離我們不遠,它是中華世紀的產婆〉,分別於2003年和2005年出現在互聯網上,難以核實其真偽。但評論家普遍認為此言論代表中共真實的想法,或故意釋放出來試探外界反應,並藉此恐嚇敵人。參見:三人行:〈評血腥公司的末日瘋狂賭〉,《大紀元新聞網》, http://www.epochtimes.com/b5/5/8/1/n1003911.htm,http://www.epochtimes.com/b5/5/8/2/n1004823.htm;李天笑:〈神要中共亡 必先使其狂〉,《大紀元新聞網》,http://www.epochtimes.com/b5/5/8/17/n1021109.htm。
[117] Jonathan Watts, “Chinese general warns of nuclear risk to US,” The Guardian, July 15 2005, https://www.theguardian.com/world/2005/jul/16/china.jonathanwatts.
[118] 白邦瑞在研讀一本中國軍事理論著作時驚訝地發現,中國學者在評估國家實力時,軍事力量在其中所占比重不足10%。蘇聯解體後,中共改變其評估體系,納入了諸如經濟、海外投資、技術創新、自然資源等因素。參見 Michael Pillsbury, The Hundred-Year Marathon: China’s Secret Strategy to Replace America as the Global Superpower, Chapter 2。
Bản tiếng Hán: http://www.epochtimes.com/gb/18/12/9/n10900318.htm
Bản tiếng Anh: https://www.theepochtimes.com/chapter-eighteen-the-chinese-communist-partys-global-ambitions-part-i_2814398.html
Bản dịch có thể được chỉnh sửa trong tương lai để sát hơn với nguyên tác.